Tịnh Độ Đại
Kinh Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
Phần 12
Chủ giảng: Lăo pháp sư Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010
Địa điểm: Hương Cảng
Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Giảo duyệt: Trịnh Lộc, Huệ Trang và Đức
Phong
Tập 23
“Đàm Loan đại sư Văng Sanh Luận Chú
viết: Vô Lượng Thọ Kinh tam bối văng sanh trung,
tuy hạnh hữu ưu liệt, mạc bất giai phát vô
thượng Bồ Đề chi tâm. Thử vô thượng
Bồ Đề chi tâm, tức thị nguyện tác Phật
tâm; nguyện tác Phật tâm, tức thị độ chúng
sanh tâm; độ chúng sanh tâm, tức nhiếp thủ chúng
sanh sanh hữu Phật quốc độ tâm” (Đàm Loan đại sư đă viết
trong Văng Sanh Luận Chú: “Trong phần Tam Bối Văng Sanh của
kinh Vô Lượng Thọ, tuy hạnh có hơn kém, nhưng
không ai chẳng đều phát tâm vô thượng Bồ
Đề. Tâm vô thượng Bồ Đề ấy chính là
tâm nguyện làm Phật. Tâm nguyện làm Phật chính là tâm độ
chúng sanh. Tâm độ chúng sanh là tâm nhiếp thủ chúng
sanh sanh về cơi có Phật”). Chúng ta xem tới đây, đây
là một đoạn ngắn. Đàm Loan đại sư
là một vị đại đức chú giải Văng Sanh Luận
trong Tịnh Độ Tam Kinh Nhất Luận, rất nhiều
vị cổ đại đức cho rằng Ngài phải
là một vị tổ sư của Tịnh Độ Tông.
Nếu là tổ sư, [xếp theo niên đại] Ngài ở
trước ngài Thiện Đạo, Ngài có cống hiến
thù thắng đối với sự tu học và hoằng dương
Tịnh Độ. Văng Sanh Luận do Thiên Thân Bồ Tát viết,
đấy là bản báo cáo tâm đắc trong tu học Tịnh
Tông của Thiên Thân Bồ Tát; khi truyền tới Trung Quốc,
[luận ấy] trở thành điển tịch chánh yếu
của Tịnh Tông, thuộc vào Tam Kinh Nhất Luận. Hiện
thời là Ngũ Kinh Nhất Luận, hai thứ ấy, một
là do cư sĩ Ngụy Nguyên đời Thanh trước
kia đem quyển cuối cùng của Phổ Hiền Hạnh
Nguyện Phẩm ghép vào sau tam kinh, trở thành tứ kinh; Ấn
Quang đại sư đem chương Đại Thế
Chí Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm ghép vào sau tứ kinh, trở
thành Ngũ Kinh Nhất Luận, ngũ kinh là như thế đó.
Kinh văn của Ngũ Kinh Nhất Luận cũng chẳng
dài; do vậy, in Ngũ Kinh Nhất Luận thành một quyển
th́ vẫn là một cuốn sách nhỏ, toàn bộ điển
tịch Tịnh Tông ở trong đó. Trong bản chú giải
ấy, Đàm Loan đại sư nói: Trong phẩm Tam Bối
Văng Sanh của kinh Vô Lượng Thọ, kinh nói tuy hạnh
có hơn, kém (ưu, liệt), “hạnh”
là nói tới sự tu hành, tức là công phu niệm Phật tu
hành có cạn hay sâu khác nhau. Công phu sâu là ưu, công phu sâu là có
thể niệm đến Sự nhất tâm, hoặc niệm
tới Lư nhất tâm là công phu sâu, c̣n “kém” là nói về công phu
thành phiến. Thật ra, công phu thành phiến cũng có hơn
kém khác nhau, nhưng nói chung, mức độ thấp nhất
là câu Phật hiệu phải có thể khuất phục phiền
năo th́ mới được, nếu chẳng thể khuất
phục tức là chẳng có công phu! Có thể chế phục
[phiền năo] là công phu cạn nhất. Tuy cạn nhất, vẫn
hữu dụng: Khi lâm chung c̣n có thể chế phục [phiền
năo], người ấy chắc chắn văng sanh; nhưng một
câu hết sức trọng yếu ở đây là “phát Bồ Đề tâm”. Nếu
không có Bồ Đề tâm, công phu dù giỏi đến mấy
cũng chẳng thể văng sanh, chúng ta phải biết điều
này.
Bồ
Đề tâm là ǵ? Cụ Hoàng nói: “Thử vô thượng Bồ Đề tâm, tức thị
nguyện tác Phật tâm” (Tâm vô
thượng Bồ Đề ấy chính là tâm nguyện làm
Phật), câu này rất trọng yếu. Trong Di Đà Yếu
Giải, Ngẫu Ích đại sư bảo: “Có thể văng sanh hay không, hoàn toàn
do có tín nguyện hay không?”
Ở đây, nguyện ấy được gọi là “tâm nguyện làm Phật”, nguyện
này trọng yếu! Quư vị tới Tây Phương Cực
Lạc thế giới để làm ǵ? Để làm Phật,
chẳng v́ lẽ ǵ khác! Đến nơi ấy là do minh
tâm kiến tánh mà đến. Trong Thiền Tông nói “đại triệt đại ngộ,
minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”, ngoài Thiền
Tông ra, tám vạn bốn ngàn pháp môn, có pháp môn nào chẳng lấy
điều này làm mục tiêu? Do vậy, trong kinh Đại
Thừa, đức Phật đă bảo: “Pháp môn b́nh đẳng, chẳng có cao thấp”, lời
này là thật, v́ tám vạn bốn ngàn pháp môn, môn nào tới cuối
cùng cũng đều là minh tâm kiến tánh. Tịnh Độ
Tông cũng không ra ngoài lệ ấy! Tịnh Độ Tông
văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới,
đúng là đới nghiệp văng sanh, chưa khai ngộ! Tới khi nào sẽ khai ngộ? Sau
khi tới thế giới Cực Lạc, gặp A Di Đà Phật,
chắc chắn khai ngộ. Cổ nhân nói: “Đản đắc kiến Di Đà, hà sầu bất
khai ngộ” (chỉ thấy Phật Di Đà, lo ǵ
chẳng khai ngộ). Đấy là điều thù thắng
của Tịnh Tông. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, bất luận
một môn nào, nếu chẳng khai ngộ, hễ chưa kiến
tánh, chẳng thể coi là thành tựu được! Riêng Tịnh
Tông chỉ cần văng sanh, dẫu phẩm vị văng sanh kém
cỏi đến mấy, hạ hạ phẩm văng sanh trong
cơi Đồng Cư, đă khai ngộ hay chưa? Chưa
khai ngộ! Tuy [kẻ đới nghiệp văng sanh] chưa khai
ngộ; nhưng trong bốn mươi tám nguyện, A Di
Đà Phật đă cho chúng ta biết: “Giai tác A Duy Việt Trí Bồ Tát” (đều là A
Duy Việt Trí Bồ Tát). A Duy Việt Trí Bồ Tát là đại
triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. V́ sao kẻ
chưa đoạn phiền năo, chưa khai ngộ, tới
thế giới Cực Lạc bèn đại triệt đại
ngộ, có trí huệ, đức năng, thụ dụng như
vậy, đấy là chuyện như thế nào? Chúng ta hiểu
những điều ấy đều do bổn nguyện và
oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ. Trước đó,
quư vị chưa giác ngộ, chẳng sao cả! Công đức
và trí huệ của Phật sẽ gia tŕ quư vị, cho nên
trong Tây Phương thế giới, quư vị hưởng sự
đăi ngộ chẳng khác Thất Địa Bồ Tát. Đây
là phương pháp khó tin, trong kinh điển, đức Thế
Tôn cũng thường nói pháp môn này “chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu
hiểu rốt ráo”. Chỉ có thật sự thành Phật
mới hiểu rơ đạo lư này, Đẳng Giác Bồ
Tát vẫn chưa mười phần thấu triệt đạo
lư ấy. Đấy là chỗ sâu mầu của pháp môn này!
Ở đây
nói “nguyện tác Phật tâm”
(tâm nguyện làm Phật) th́ tâm nguyện làm Phật nghĩa
là ǵ? Lời giải thích tiếp đó hay lắm: “Tức thị độ chúng
sanh tâm” (tức là tâm độ chúng sanh), nguyện thứ
nhất trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện là “chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ”. Độ chúng sanh há phải là chuyện dễ
dàng? Hiện thời, thế gian này chúng sanh khổ đến
cùng cực, xă hội động loạn, thiên tai xảy ra
liên tiếp, hết sức dày đặc. Từ truyền
thông, TV, radio, quư vị đều có thể thấy: Mỗi
ngày đều có tai nạn. Hơn nữa, dường như
tai nạn mỗi lần càng nghiêm trọng hơn. Hiện
nay, cư dân trên toàn địa cầu dường như
chẳng một người nào có cảm giác an toàn, quư vị
nói xem chuyện này có đáng khiếp hăi hay chăng? Từ trước
tới giờ chưa hề có! Do nguyên nhân ǵ? Chúng ta thấy
thế giới Cực Lạc tai nạn ǵ cũng đều
không có, thân tâm con người khỏe mạnh, vô lượng
thọ, thân kim cang bất hoại, những điều này
có nghĩa là: Người trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới chẳng có nỗi khổ sanh, lăo, bệnh,
tử. Sanh vào nơi ấy chẳng phải là thai sanh, mà là
hóa sanh, tức là hóa sanh trong hoa sen, chẳng có nỗi khổ
sanh, lăo, bệnh, tử, vô lượng thọ mà! Chẳng
có nỗi khổ v́ cầu không được (cầu bất
đắc khổ), khổ v́ yêu thương phải chia ĺa
(ái biệt ly khổ), khổ v́ oán ghét mà cứ phải gặp
gỡ (oán tắng hội khổ), khổ v́ năm ấm lừng
lẫy (ngũ ấm xí thịnh khổ). Đấy là Bát
Khổ như trong kinh Phật đă dạy. Người thế
gian, lục đạo phàm phu, bị tám khổ chen nhau nung
nấu; trong thế giới Cực Lạc chẳng có tám nỗi
khổ ấy, Hoại Khổ và Hành Khổ cũng chẳng
có; v́ thế, gọi là thế giới Cực Lạc. Người
sanh vào nơi ấy, tức người văng sanh cơi ấy đều
có tâm độ chúng sanh, đều phát cái nguyện này: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ”, giúp đỡ chúng sanh ĺa khổ được
vui.
Khổ do
đâu mà có? Khổ do mê hoặc mà có! Quư vị chẳng hiểu
chân tướng sự thật, khởi tâm động niệm
đều do phiền năo làm chủ. Phiền năo làm chủ
khiến cho quư vị tạo nghiệp. Khởi tâm động
niệm là ư tạo nghiệp, ngôn ngữ và hành vi là thân khẩu
tạo nghiệp. Tạo nghiệp, nghiệp có thiện và bất
thiện. Thiện nghiệp thọ báo trong tam thiện đạo,
ác nghiệp sẽ thọ báo trong tam ác đạo, khổ
chẳng thể nói nổi, vĩnh viễn chẳng ra khỏi
lục đạo luân hồi. Đó là chân khổ (nỗi
khổ thật sự).
Lục đạo là thật,
chẳng giả, ai phát hiện lục đạo trước
hết? Chẳng phải là Thích Ca Mâu Ni Phật! [Lục
đạo] đă được Bà La Môn phát hiện từ
xưa, c̣n sớm hơn Thích Ca Mâu Ni Phật tối thiểu
mấy ngàn năm! Bà La Môn giáo hiện thời là Hưng Đô
Giáo (Hinduism, Ấn Độ giáo), tôi có qua lại với họ,
c̣n tham gia họp mặt với họ. Những trưởng
lăo [Ấn giáo] bảo tôi: Tôn giáo của họ có lịch sử
lâu đến một vạn năm, đời đời tương truyền, tôi tin
tưởng [lời ấy], người Ấn Độ
không coi trọng lịch sử. Nghĩ lại Trung Quốc
th́ Trung Quốc thường nói có năm ngàn năm lịch
sử, năm ngàn năm ấy là nói theo kiểu nào? [Tính từ
khi] có ghi chép, có văn tự ghi chép. Văn tự được
sáng chế vào thời Hoàng Đế, kể từ thời
Hoàng Đế tới hiện đại là bốn ngàn năm
trăm năm. Trước Hoàng Đế là Thần Nông, trước
Thần Nông có Phục Hy; theo truyền thuyết, Bát Quái do Phục
Hy vẽ ra. Trong khoảng thời gian ấy, từ Thần
Nông đến Hoàng Đế là năm trăm năm, từ
Thần Nông tới Phục Hy cũng là năm trăm năm,
[tổng cộng] là một ngàn năm. Trước khi Trung
Quốc chính thức sử dụng văn tự là một ngàn
năm, đă bắt đầu có những phù hiệu [để
đánh dấu những sự kiện quan trọng], những
thứ Giáp Cốt Văn[1] được khai quật đă chứng
tỏ điều này. Do vậy, Trung Quốc dùng phù hiệu
để ghi chép, đích xác là có thể hơn năm ngàn năm.
Trước năm ngàn năm, ngay cả những phù hiệu
ấy cũng không có, nhưng có nhân loại hay chăng? Đương
nhiên là có! Đă thế, người thông minh chẳng ít. Tinh
hoa của văn hóa truyền thống Trung Quốc do cổ
thánh tiên hiền lưu lại, Khổng phu tử biên tập,
hệ thống hóa lại mà thôi. Lăo nhân gia nói hết sức
thành thật, cả đời Ngài “thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ” (thuật
lại chứ không trước tác, tin tưởng, chuộng
cổ). Con người hiện thời phải nên học
tập điều này! Từ thái độ ấy, quư vị
thấy lăo nhân gia khiêm hư, cung kính. Hai câu này cho thấy: Sở
học, sở tu, sở giáo, sở truyền suốt một
đời Phu Tử chẳng phải là những thứ của
chính Ngài, chính Ngài cả đời chẳng sáng tạo, chẳng
phát minh, hết thảy đều do cổ thánh tiên hiền
lưu lại, bất quá Ngài chỉ dùng văn tự để
ghi chép ḥng lưu truyền hậu thế. Chúng tôi tin rằng
trong Luận Ngữ có nhiều câu là do cổ thánh tiên hiền
từ ngàn vạn năm trước truyền lại. Thích
Ca Mâu Ni Phật cũng không ngoại lệ, Thanh
Lương đại sư nói: Hết thảy các kinh do đức
Phật đă nói trong bốn mươi chín năm đều
do cổ Phật đă nói. Ngài Thanh Lương nói: Đức
Thế Tôn từng bảo Ngài chẳng thêm một chữ nào
vào các kinh do cổ Phật đă nói, thái độ c̣n nghiêm
cẩn hơn Khổng Tử. Thánh nhân Đông phương
và Tây phương đă nêu gương cho chúng ta.
Hiện
nay, chúng ta thường nghĩ phải sáng tạo, phải
phát minh, phải trội hơn người khác, quan niệm
ấy là ǵ? Quan niệm ấy là phiền năo! Tham, sân, si, mạn,
nghi, quư vị xem người đó đă phạm bao nhiêu chữ
trong mấy chữ ấy? Chẳng khiêm nhượng như
cổ nhân. Phu Tử ôn ḥa, hiền từ, cung kính, tiết
kiệm, nhường nhịn, chắc chắn chẳng tranh
danh, đoạt lợi, tự ḿnh có kiến giải giống
như cổ nhân, bèn nói những điều cổ nhân đă
nói, chẳng nói những điều của chính ḿnh, đó
là đức hạnh, tích đức. Chẳng ham tiếng
tăm, lợi dưỡng, đấy là điều kiện
căn bản của học vấn, đức hạnh thế
gian và xuất thế gian. Do vậy, Phổ Hiền Bồ
Tát dạy chúng ta mười cương lănh tu học, thứ
nhất là “lễ kính chư Phật”.
Kinh Mân Côi của đạo Thiên Chúa có tất cả mười
lăm đoạn, đoạn thứ nhất bảo chúng
ta hăy học tập đức khiêm tốn của Đức
Mẹ Maria. Quư vị mở sách Lễ Kư ra xem, câu đầu
tiên là “Khúc Lễ viết, vô bất
kính” (Khúc Lễ nói: “Không ǵ chẳng kính”). Thánh nhân thế
gian và xuất thế gian dạy chúng ta học từ đâu?
Học từ khiêm tốn. Người Trung Quốc nói tới
Lễ, tinh thần của Lễ là “tự ty, tôn nhân”, [tức là] chính ḿnh khiêm tốn,
tôn trọng người khác, đó là Lễ. Chính ḿnh làm cho
người khác thấy, họ tiếp xúc sẽ cảm
động, học tập theo quư vị, lúc ấy mới
là “độ chúng sanh”. Thánh nhân thế gian và xuất thế
gian “độ” là giáo hóa, chỉ
dạy người khác, cách dạy ra sao? Trước hết,
[chính ḿnh] phải làm, thân hành, ngôn giáo. Thân hành được
xếp hàng đầu, đó là giáo dục người khác bằng
hành động gương mẫu, ta phải làm được
[những điều ta dạy]. Người khác trông thấy,
mong học theo, họ nêu câu hỏi, quư vị lại dùng ngôn
ngữ để chỉ dạy. Nhất định phải
là trước hết [chính ḿnh] làm được.
Chúng ta phải
giúp chúng sanh làm được rốt ráo viên măn trong một
đời này, điều này khó lắm. Chính chúng ta muốn
làm tới mức viên măn c̣n chưa dễ dàng, huống hồ
người khác? Nhưng A Di Đà Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật
đă mở cho chúng ta một pháp môn phương tiện, đó
là pháp môn Tịnh Độ. Pháp môn này tu như thế nào? Quư
vị hăy xem, “nhiếp thủ
chúng sanh sanh hữu Phật quốc độ tâm” (tâm nhiếp
thủ chúng sanh sanh vào cơi nước có Phật). A Di Đà Phật
ở trong cơi nước Tây Phương, quốc độ
này do Ngài kiến lập, chúng ta có thể tin tưởng
hay chăng? Nếu quư vị có thể khế nhập Đại
Thừa đôi chút, quư vị sẽ tin tưởng, do đạo
lư nào? Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng! Trong
tương lai, từ bộ kinh này, chúng ta cũng có thể
thấy: Trong ấy, nói đến lịch sử của Tây
Phương Cực Lạc thế giới, thế giới
ấy thành tựu như thế nào, khi giảng đến
chỗ ấy, chúng tôi sẽ lại báo cáo tỉ mỉ cùng
mọi người. Chúng ta liễu giải lịch sử,
sanh tâm cảm ơn A Di Đà Phật, Ngài kiến lập thế
giới Tây Phương, tiếp dẫn lục đạo
chúng sanh trong hết thảy các cơi Phật trọn khắp
pháp giới hư không giới. Người thuộc tứ
thánh pháp giới dễ độ, chúng sanh trong lục đạo
chẳng dễ độ, họ chưa thể đoạn
phiền năo. Tiếp dẫn những chúng sanh ấy đến
thế giới Cực Lạc, nói theo cách bây giờ sẽ
là “di dân”. Nơi này hoàn cảnh học tập chẳng tốt
đẹp, chướng duyên rất nhiều; thế giới
Cực Lạc là hoàn cảnh học tập hết sức tốt
đẹp, điều kiện học tập bên ấy thứ
ǵ cũng đều trọn đủ. Có thầy giỏi,
có hoàn cảnh tốt đẹp, bạn học tốt lành,
trong hoàn cảnh ấy, tập khí phiền
năo của chúng ta đều bất tri bất giác bị
đào thải sạch; điều này hết sức khó có,
hết sức thù thắng. “Hữu
Phật quốc độ” (Cơi nước có Phật):
Trên thế giới này chẳng có Phật, thời gian Thích
Ca Mâu Ni Phật trụ thế rất ngắn! Từ lúc Ngài
giáng sanh cho đến khi nhập diệt là tám mươi năm,
từ lúc Phật khai ngộ tới khi [hoàn tất sự
nghiệp] dạy học là bốn mươi chín năm. Ngài
khai ngộ năm ba mươi tuổi, bắt đầu
dạy học từ năm ba mươi tuổi, bảy
mươi chín tuổi viên tịch, người Trung Quốc
nói theo kiểu hư tuế[2] là tám mươi tuổi. Nói theo cách của
người ngoại quốc th́ Phật vừa đúng bảy
mươi chín tuổi. A Di Đà Phật thường trụ
trong thế giới ấy, chúng sanh thọ vô lượng, Phật
cũng thọ vô lượng. Không chỉ riêng A Di Đà Phật
giáo hóa ở bên ấy, mà mười phương chư Phật
cũng thường đến nơi ấy để giảng
kinh, giáo học. A Di Đà Phật mở trường, mười
phương chư Phật tới đó với thân phận
giáo thụ, tức là dùng thân phận của một vị
thầy để đến nơi ấy. A Di Đà Phật
cũng có hai vị trợ thủ là Quán Thế Âm Bồ Tát
và Đại Thế Chí Bồ Tát. Hai vị trợ thủ
của Phật, một vị chủ tŕ Hạnh môn, một
vị chủ tŕ Giải môn: Đại Thế Chí Bồ
Tát chủ tŕ Giải môn, giảng kinh, dạy học. Quán
Thế Âm Bồ Tát chủ tŕ Hạnh môn, chỉ đạo
quư vị thật sự tu tập như thế nào, chúng ta nói
là “thật sự hành”. Do vậy, tiến bộ hết sức
vô cùng nhanh chóng, đây là lư do v́ sao chúng ta phải chọn lựa
pháp môn này. Chọn lựa pháp môn khác sẽ không được
ư? Đúng là không được! Do chúng ta chưa buông phiền
năo tập khí xuống được, nên mới chọn lựa
pháp môn này.
Chúng ta lại
đọc tiếp, “thị cố
nguyện sanh bỉ An Lạc Tịnh Độ giả, yếu
phát vô thượng Bồ Đề tâm dă. Nhược nhân bất
phát vô thượng Bồ Đề tâm, đản văn bỉ
quốc độ thọ lạc vô gián, vị lạc cố
nguyện sanh, diệc đương bất đắc văng
sanh dă” (v́ thế, kẻ nguyện sanh về cơi An Lạc
Tịnh Độ kia, phải phát vô thượng Bồ
Đề tâm. Nếu ai chẳng phát vô thượng Bồ
Đề tâm, chỉ nghe trong cơi kia hưởng sự vui
chẳng gián đoạn, v́ [ham chuộng] vui sướng mà
nguyện văng sanh, cũng chẳng thể văng sanh). Chúng ta phải
nhớ kỹ câu này, nghe nói cơi nước ấy quá tốt
đẹp, nhưng ta chẳng phát tâm độ chúng sanh, chỉ
v́ thế gian này quá khổ sở, ta đến đó hưởng
lạc, thế giới ấy quá tốt đẹp, vô cùng
hâm mộ, như vậy th́ có thể văng sanh hay chăng? Chẳng
thể văng sanh! V́ chẳng tương ứng với bổn
nguyện của A Di Đà Phật, mà cũng chẳng tương
ứng với nguyện vọng của tất cả những
người đă văng sanh thế giới
Cực Lạc; do vậy, quư vị không đi được.
Đây là nói về tầm quan trọng của nguyện thứ
mười chín của A Di Đà Phật, trọng yếu
hơn bất cứ điều ǵ khác, chẳng thể
xem nhẹ! Nguyện mười tám là “mười niệm ắt sanh”, nguyện mười
chín là “phát Bồ Đề tâm”.
Bồ Đề tâm là ǵ? Kinh Quán Vô
Lượng Thọ dạy Bồ Đề tâm có ba ư
nghĩa. Thứ nhất là chí thành tâm, đây là Thể của
Bồ Đề tâm, chân thành. Thứ hai là thâm tâm, tức
tâm sâu hay cạn. Thâm tâm là Tự Thụ Dụng. Trong
tựa đề kinh nói tới thanh tịnh tâm, b́nh đẳng
tâm và giác tâm. Ba món này là Tự Thụ Dụng Bồ Đề
tâm. Nói cách khác, chính ḿnh hằng ngày tu hành, cũng có nghĩa
là trong cuộc sống, trong công việc, xử sự, đăi
người, tiếp vật, đều phải dùng tâm “thanh
tịnh, b́nh đẳng, giác”, đấy là Tự Thụ Dụng.
Tâm thứ ba nhằm dành cho người khác, chúng ta dùng tâm ǵ
để đối đăi người khác? Hồi hướng
phát nguyện tâm. Hồi hướng phát nguyện là đại
từ đại bi, giúp hết thảy chúng sanh nhận biết
Tịnh Độ, liễu giải Tịnh Độ, và cũng
phát tâm cầu sanh Tịnh Độ giống như chúng ta.
Đó gọi là hồi hướng phát nguyện tâm. Ba tâm này
là một tâm, chẳng phải là nói có ba tâm, mà chúng là một
tâm, nhất tâm. [Nói ba tâm là nói tới] Thể và Dụng của
một tâm, trong Dụng lại chia thành hai loại: Tự Thụ
Dụng và Tha Thụ Dụng. Phàm là người tu Tịnh
Độ, nếu không có ba tâm ấy, dẫu niệm Phật
hiệu giỏi giang cách mấy, vẫn chẳng thể văng
sanh! Phải ghi nhớ điều này! Ở đây, nói rất
rơ ràng: Nếu chẳng phát Bồ Đề tâm, sẽ không
thể văng sanh, có thể thấy phát tâm trọng yếu. Ngẫu
Ích đại sư nói rất hay: Có thể văng sanh hay không được
quyết định bởi có tín nguyện hay không! Quư vị
có tin Tịnh Độ hay không? Quư vị có phát Bồ Đề
tâm hay chăng? Chỉ cần quư vị tin tưởng Tịnh
Độ, phát Bồ Đề tâm, chắc chắn được
văng sanh. Công phu niệm Phật sâu hay cạn [quyết định]
phẩm vị sanh về thế giới Cực Lạc của
quư vị, phẩm vị cao hay thấp khác nhau. Công phu niệm
Phật sâu, phẩm vị sẽ cao; công phu kém hơn một
chút, phẩm vị sẽ thấp. Trong hai thứ này, thứ
nào trọng yếu? Phát tâm trọng yếu. Thật sự
phát tâm, cổ đại đức bảo: Mỗi ngày quư
vị tu pháp Thập Niệm là được rồi. Cả
đời chẳng gián đoạn, sáng tối mỗi ngày,
buổi sáng thức dậy bèn niệm Phật mười
tiếng, buổi tối đi ngủ niệm Phật mười
tiếng, mỗi ngày chẳng gián đoạn, cả đời
chẳng gián đoạn, đấy là “tịnh niệm tiếp nối”. Quư vị thấy
pháp môn này dễ lắm, đơn giản lắm, đúng
như Thiện Đạo đại sư nói: “Vạn người tu, vạn
về”, chẳng sót một
ai!
Xem đoạn
tiếp theo: “Hựu An Lạc Tập
viết, y Thiên Thân Tịnh Độ Luận” (Lại nữa,
sách An Lạc Tập ghi: “Dựa theo Tịnh Độ Luận
của Thiên Thân Bồ Tát”), [Tịnh Độ Luận] là Văng
Sanh Luận, trong ấy nói, “phàm
dục phát tâm hội vô thượng Bồ Đề giả,
hữu kỳ nhị nghĩa” (phàm muốn phát tâm hiểu
vô thượng Bồ Đề th́ có hai ư nghĩa), giảng
vô thượng Bồ Đề rơ ràng hơn. “Tiên tu ly tam chủng dữ Bồ
Đề môn tương vi pháp” (trước hết, phải
ĺa ba thứ pháp trái nghịch Bồ
Đề môn). Ba pháp trái nghịch ấy sẽ chướng
ngại quư vị phát Bồ Đề tâm. Chỉ cần quư
vị có cái tâm ấy, sẽ chẳng thể phát Bồ Đề
tâm. Do vậy, quư vị phải tách rời chúng, buông chúng xuống.
“Nhị giả, tu tri tam chủng
thuận Bồ Đề môn pháp” (Hai là cần biết
ba pháp thuận Bồ Đề môn), c̣n có phương pháp tùy
thuận Bồ Đề môn. Tiếp đó, sách giảng: “Hà đẳng vi tam? Y trí huệ
môn, bất cầu tự lạc, viễn ly ngă tâm tham trước
tự thân cố” (Ba pháp ấy là ǵ? Nương theo trí
huệ môn, chẳng cầu vui sướng cho riêng ḿnh, v́ xa
ĺa cái tâm chấp ngă, tham đắm thân ḿnh), đây là điều
thứ nhất. Nói cách khác, quư vị cầu vui sướng
cho riêng ḿnh, cầu hưởng thụ ngũ dục lục
trần thế gian, chấp trước thân thể này, chấp
thân tướng này là ta, không buông xuống được,
sẽ chẳng thể phát Bồ Đề tâm. Bồ Đề
tâm ắt phải vong ngă. Trong kinh Kim Cang, đức Phật
nói bốn câu: “Vô ngă tướng,
vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả
tướng”. Bồ Đề tâm sẽ phát khởi.
Bởi lẽ,
Ngă Chấp là chướng ngại nghiêm trọng nhất,
khởi tâm động niệm đều nghĩ đến
ḿnh, chuyện này rất phiền phức. Có thể chuyển
ư niệm hay không, khởi tâm động niệm đều
nghĩ tới người khác, nghĩ tới xă hội, nghĩ
đến những chúng sanh khổ nạn, chúng ta làm thế
nào để giúp đỡ họ? Quư vị nói ta chẳng
có năng lực giúp đỡ họ, đó là giả, quư vị
đă hoàn toàn sai rồi! Ta dùng năng lực ǵ? Chỉ cần
ta học đàng hoàng, học theo gương tốt, nêu gương
tốt là ta đă giúp xă hội, giúp đỡ hết thảy
chúng sanh. Chúng sanh cầu vui sướng cho riêng ḿnh, ta không
cầu, chúng sanh niệm niệm v́ chính ḿnh, ta niệm niệm
v́ người khác. Làm được [những điều
ấy], chẳng phải là không làm được. Điều
này cần đến trí huệ, người có trí huệ sẽ
làm được. Kẻ thiếu trí huệ, tự tư
tự lợi, tạo tiếng tăm, lợi dưỡng,
tham cầu hưởng thụ ngũ dục lục trần,
chẳng ĺa khỏi tham, sân, si, mạn, người như
vậy chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi.
Dẫu niệm Phật cũng chẳng thể văng sanh, người
ấy kết duyên với Phật, kết thiện duyên, nhưng
đời này chẳng thể văng sanh! V́ thế, đây là điều
kiện tiên quyết, trong cuộc sống hết thảy
tùy duyên, trọn chẳng so đo!
Thứ
hai là “y từ bi môn”, “môn” là pháp môn, tức là phương
pháp tu hành, “bạt nhất thiết
chúng sanh khổ, viễn ly vô an chúng sanh tâm cố” (dẹp
khổ cho hết thảy chúng sanh, xa ĺa cái tâm khiến cho
chúng sanh chẳng yên ổn). Câu cuối cùng này quan trọng,
chớ nên khiến cho tâm chúng sanh bất an, làm cho chúng sanh
tâm bất an sẽ trái nghịch Bồ Đề tâm. Đây
là “tâm dẹp khổ”, thấy chúng sanh có khổ nạn phải
giúp đỡ họ. Nỗi khổ lớn nhất là ǵ?
Tâm t́nh bất an, điều này rất đau khổ, vọng
niệm quá nhiều, lo được, lo mất. Chúng ta thấy
t́nh h́nh giống như vậy trong xă hội này có nhiều
hay không? Mọi nơi đều như vậy. Nhất là
trong xă hội cận đại này, giáo học luân lư, đạo
đức, nhân quả đều không có, con người học
ǵ? Học tham lam, biển dục vô biên! Tâm tham bành trướng,
bành trướng tới cuối cùng, [sẽ như] đức Phật đă dạy trong kinh
Lăng Nghiêm, tâm tham cảm ứng nước, nước
biển dâng lên, nhấn ch́m toàn bộ lục địa trên
mặt địa cầu. Đấy là kết quả tâm
tham bành trướng tới cuối cùng. Chúng tôi ở Mỹ,
thấy họ vẽ bản đồ thế giới tương
lai, băng ở Nam Cực và Bắc Cực hoàn toàn tan chảy,
các nhà khoa học bảo nước biển sẽ dâng
lên cao hơn năm mươi mét, những ǵ có độ
cao dưới năm mươi mét trong hiện thời đều
bị nhấn ch́m. Các khoa học gia biết điều này,
và cũng công nhận đó là chuyện rất có thể xảy
ra, không có cách nào giải quyết vấn đề này. Nhiệt
độ địa cầu không ngừng tăng lên. Nhiệt
độ tăng lên là do sân khuể, nước biển dâng
trào là do tham lam, đấy là đại tai nạn trên địa
cầu. Xảy ra như thế nào? Do tham, sân, si của nhân
loại trên địa cầu gây ra. Trong tâm kiêu căng, ngạo
mạn, bất b́nh, tạo thành động đất, ngu
si tạo thành phong tai. Có đạo lư hay chăng? Có đạo
lư!
Đạo
lư giảng trong kinh Phật quá sâu, rất khó có; hiện thời
các khoa học gia đă chứng tỏ, hiện thời có căn
cứ khoa học. Theo Đại Thừa Phật pháp, toàn
thể vũ trụ là một thể hữu cơ (organism),
sống động, toàn bộ vũ trụ sống động.
Nói từ chỗ nào? Phật pháp nói một vi trần, nay chúng
ta gọi vi trần là nguyên tử, điện tử, hay hạt
cơ bản, đấy là những vật chất nhỏ
nhất. Vật chất là Sắc, sau Sắc có Thọ,
Tưởng, Hành, Thức, nhà Phật gọi chúng là Ngũ
Uẩn. Dẫu là một hạt cơ bản, nhỏ hơn
nguyên tử và điện tử, thân thể chúng ta do một
đống những hạt cơ bản tổng hợp thành,
mỗi hạt cơ bản đều có Thọ, Tưởng,
Hành, Thức, trong Phật pháp nói là A Lại Da. Pháp Tướng
Tông nói trong vũ trụ cái ǵ cũng không có, chỉ là Thức,
nên nói là Duy Thức, điều ấy là thật. Thức
là ǵ? Thức do tinh thần và vật chất hỗn hợp
thành. Quư vị nói tới con người chúng ta, mọi người
sẽ dễ hiểu, năm thức trước của chúng
ta, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân có cảm thụ, có năng
lực tiếp nhận. Thức thứ sáu là tư tưởng,
phân biệt; thức thứ bảy là chấp trước.
A Lại Da là kư ức, giống như một cái kho kư ức.
Trong những năm qua, tiến sĩ Giang Bổn Thắng
của Nhật Bản phát hiện, ông ta làm thí nghiệm với
nước suốt mười mấy năm, nước là
khoáng vật, nhưng nước có thể thấy, nghe, hiểu
được ư nghĩ con người, nó có phản ứng.
Điều này chứng tỏ nước là một thể
hữu cơ. Gần đây, lại có một tin tức do
các đồng học hạ tải (download) [từ Internet]
đưa cho tôi, tôi mới đọc một lần, một
lần chưa được! Phải đọc cả mười
mấy lượt, ấn tượng mới có thể khắc
sâu. Họ nói nước c̣n có kư ức, kư ức là A Lại
Da thức, điều này chứng tỏ: Trong hạt cơ
bản có đầy đủ Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức. Cả vũ trụ là sống động, bất
luận vật chất hiện tượng ǵ cũng đều
do các hạt cơ bản hợp thành. Trong mỗi hạt
cơ bản đều có đủ Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức. Sắc là vật chất, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức là tác dụng của nó, là tâm pháp.
Do vậy,
chúng tôi nghĩ: Thân thể này của chúng ta do bao nhiêu nguyên
tử, điện tử tổng hợp thành? Nếu hỏi
các khoa học gia về con số ấy, con số ấy
quá lớn! Mỗi nguyên tử, mỗi hạt cơ bản
đều có Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, tổng
hợp thành một cá nhân, toàn bộ cũng là cùng một Sắc,
Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Phân tích đến mức
vi tế, vẫn là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Có Thọ, Tưởng, Hành, Thức, chúng ta khởi tâm
động niệm th́ núi, sông, đại địa biết,
cây cối, hoa, cỏ biết, hiện tượng tự
nhiên đều biết. Chúng ta khởi lên thiện niệm,
chúng nó sẽ có đáp trả tốt lành; khởi lên ác niệm,
nó sẽ có đáp trả bất thiện. Hiện thời,
cư dân trên địa cầu khởi lên toàn ư niệm
tham, sân, si, mạn, nghi, toàn là tổn người lợi ḿnh,
cho nên địa cầu có lắm tai nạn. V́ sao Tây
Phương Cực Lạc thế giới tốt đẹp
dường ấy? Cư dân nơi đó hằng ngày được
A Di Đà Phật giáo hóa, chỉ dạy, hết thảy
chư Phật, Bồ Tát đều tới đó dạy học,
cho nên người nơi ấy, không ai có ác niệm, lại
càng chẳng có một ai mang hành vi bất thiện. Do vậy,
cơi ấy [toàn là] tin tức tốt lành, cây cối, hoa, cỏ,
núi, sông, đại địa thảy đều tốt đẹp,
chẳng có ǵ bất hảo, kinh Đại Thừa gọi
điều này là “cảnh chuyển
theo tâm”. Trong các đồng học chúng ta cũng có
người thật sự lạy Phật cầu phước,
hỏi khi có những tai nạn ấy th́ dùng phương
pháp ǵ để hóa giải tai nạn? Nghe nói Phật, Bồ
Tát chỉ có bốn chữ “giảng
kinh, giáo học”. Quư vị nói xem có lư hay không? Tây
Phương Cực Lạc thế giới vốn là mỗi
ngày đều giảng kinh, giáo học chẳng gián đoạn.
Mấy năm
trước, chúng tôi làm thí nghiệm tại
Thang Tŕ, chứng tỏ điều ǵ? Nhân dân được
giáo hóa bèn tốt đẹp. Chỉ cần con người
chuyển biến ư niệm, chẳng c̣n tạo ác, niệm
niệm tương ứng với Tánh Đức. Tại
Trung Quốc, cổ thánh tiên hiền dạy chúng ta: Có thể
tương ứng với hiếu đạo, tương ứng
với Ngũ Luân, tương ứng với Ngũ Thường,
tương ứng với Tứ Duy, Bát Đức, giáo dục
trí huệ, giáo dục từ bi, trên thế giới này tai nạn
ǵ cũng đều chẳng có. C̣n bản thân quư vị
th́ sao? Bệnh tật ǵ cũng chẳng có, mỗi năm tuổi
cao hơn, nhưng năm nào cũng khỏe mạnh, chắc
chắn không già yếu. Do nguyên nhân ǵ? Tướng chuyển
theo tâm, tâm của quư vị thiện lương, đạo
lư ở chỗ này. Cảnh chuyển theo tâm; đối với
hoàn cảnh th́ đại hoàn cảnh là địa cầu,
nếu hướng ra ngoài th́ đại hoàn cảnh là Thái
Dương Hệ, Ngân Hà Hệ đều là hoàn cảnh sống
của chúng ta. Ư niệm tốt đẹp th́ toàn bộ đều
tốt đẹp. Ư niệm bất hảo, mọi chuyện
đều xảy ra. Nếu tinh cầu chệch khỏi quỹ
đạo, đúng là đại tai nạn, chẳng phải
là tai nạn nhỏ nhoi. Có thể là khiến cho tinh cầu
chẳng bị chệch khỏi quỹ đạo hay không?
Có thể! Chỉ cần trở về luân lư, đạo
đức, sẽ không xảy ra vấn đề. Những
điều này đều là thật, quư vị hăy tin tưởng,
phải tin tưởng lời “lăo
nhân” mới được. Phật, Bồ Tát là lăo nhân,
Khổng Tử, Mạnh Tử là lăo nhân, các Ngài chẳng lừa
người, v́ sao? Các Ngài tiếng tăm, lợi dưỡng
ǵ cũng chẳng cần. Nhất là Thích Ca Mâu Ni Phật thị
hiện, quư vị thấy Ngài sống quá đơn giản,
ba y, một bát, giữa trưa ăn một bữa, ngủ
dưới gốc cây, tiếng tăm, lợi dưỡng
ǵ cũng chẳng dính đến. V́ lẽ nào Ngài lừa quư
vị? Chẳng có lư do nào cả! Quư vị tin tưởng,
sẽ có phước, y giáo phụng hành, sẽ vượt
thoát, linh tánh được nâng cao. Do vậy, ở chỗ
nào cũng đều khiến cho hết thảy chúng sanh sanh
tâm hoan hỷ.
Xem tiếp
điều thứ ba: “Tam giả
phương tiện môn, lân mẫn nhất thiết chúng
sanh tâm, viễn ly cung kính cúng dường tự thân tâm cố”
(Ba là phương tiện môn, tâm thương xót hết thảy
chúng sanh, tâm xa ĺa cung kính cúng dường thân ḿnh). Sau đó
là một câu tổng kết, “thị
danh viễn ly tam chủng Bồ Đề môn tương
vi pháp” (đó gọi là xa ĺa ba pháp trái nghịch Bồ
Đề môn). Người thế gian chúng ta háo danh, mong được
người khác cung kính, cúng dường, chớ nên có ư niệm
này! V́ sao? Trong tự tánh không có [những thứ ấy], tự
tánh là thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần. Quư vị
có những thứ ấy, sẽ chẳng đạt được
tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh không đạt được
th́ tâm b́nh đẳng chẳng đạt được. Thưa
quư vị, trong tựa đề kinh có nói “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, đó là ba cái nhân.
Tâm thanh tịnh là A La Hán, tâm b́nh đẳng là Bồ Tát, giác
là Phật, thành Phật. Tâm chưa đạt được
thanh tịnh th́ là phàm phu, vẫn phải
luân hồi trong lục đạo. Người khác hủy
báng, quư vị có bực tức hay không? Quư vị nổi cáu,
tâm sẽ không thanh tịnh. Người khác khen ngợi, quư
vị có vui vẻ hay không? Hễ khoan khoái, tâm lại chẳng
thanh tịnh rồi! Do vậy, trong thuận cảnh chẳng
có tâm tham luyến, trong nghịch cảnh chẳng có tâm oán hận,
tâm của quư vị mới thanh tịnh. Đó gọi là tu
hành thật sự, chẳng bị cảnh giới xoay chuyển.
Tu trong cuộc sống, tu trong công việc, tu trong xử sự,
đăi người, tiếp vật, ai nấy đều là
Phật, Bồ Tát, nơi nào cũng đều là đạo
tràng của Phật, lẽ đâu quư vị chẳng thành Phật?
Chắc chắn quư vị thành tựu. Trong quá khứ, chúng
ta học kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử thành tựu
như thế nào? Thành tựu như vậy đó, phải
học điều này, đúng là tuyệt diệu! Đạo
tràng ở nơi đâu? Không chỗ nào chẳng phải là đạo
tràng. Phật, Bồ Tát ở nơi đâu? Hết thảy
chúng sanh đều là Phật, Bồ Tát, đều giúp quư
vị tiến cao hơn, vấn đề là quư vị có hiểu
hay không? Do vậy, trong giáo pháp Đại Thừa, tổ
sư đại đức thường hỏi kẻ khác,
hỏi học tṛ: “Ngươi
có hiểu hay không?” Nếu
hiểu sẽ thành công.
Ở đây,
chúng ta cùng nhau học tập trong một thời gian rất
lâu, tôi thường dùng TV, dùng màn h́nh của máy TV [làm tỷ
dụ], nếu quư vị hiểu, mỗi ngày xem TV đều
thành Phật. TV đă tŕnh bày điều ǵ? Không và Có chẳng
hai. Màn h́nh TV là Không, cái ǵ cũng chẳng có! Băng tần
TV là có, băng tần và màn h́nh không có cách nào phân chia, chẳng
hai! Chúng là hai chuyện, màn h́nh là màn h́nh, sắc tướng
trong màn h́nh là sắc tướng, là hai chuyện, nhưng
khi mở TV th́ băng tần hiện ra sắc tướng,
quư vị có thể tách rời chúng hay chăng? Chẳng tách
được! “Sắc tức
là Không, Không tức là Sắc. Sắc chẳng khác Không, Không
chẳng khác Sắc”, đấy chẳng phải là Tâm
Kinh ư? V́ thế, quư vị biết xem th́ biết xem là tu
hành, là nhập pháp môn Bất Nhị, có thể nhập pháp
môn Bất Nhị bèn thành Phật. Đừng bị cảnh
giới xoay chuyển th́ quư vị mới có thể chuyển
cảnh giới. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nhược năng chuyển cảnh, tắc đồng
Như Lai” (nếu có thể chuyển cảnh, sẽ giống
Như Lai). Trong cuộc sống của chúng ta, từ sáng đến
tối đều là cảnh giới, trong cảnh giới
phải làm chủ, đừng bị cảnh giới xoay chuyển.
Thuận cảnh, quư vị khởi tâm tham, sanh tâm hoan hỷ,
vui thích, trật rồi! Gặp nghịch cảnh bèn sanh oán
hận, sanh [ư niệm] báo thù, trật rồi! V́ sao? Phàm những
ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng, chẳng
có ǵ là thật. Đức Phật nói “hiện tướng”
(tướng được biến hiện) là giả, v́
sao là giả ? Nó biến hóa trong từng sát-na, vĩnh viễn
chẳng ngừng. Hơn nữa, từ trước đến
nay, chưa có hai hiện tướng nào tương đồng,
biến đổi trong từng sát-na. Di Lặc Bồ Tát đă
dạy chúng ta chân tướng sự thật: Trong một
khảy ngón tay có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm,
niệm niệm thành h́nh, h́nh đều có thức. Nay chúng
ta gọi cái “thành h́nh” ấy là hạt cơ bản. Trong mỗi
niệm đều tạo ra hạt cơ bản; nhưng
trong mỗi hạt cơ bản đều có Thọ,
Tưởng, Hành, Thức, “h́nh
đều có thức”! Đấy là nói cội nguồn
của vạn vật trong vũ trụ. Nếu quư vị liễu
giải chân tướng sự thật, sẽ tự nhiên chẳng
động tâm trong hết thảy cảnh giới. Chẳng
khởi tâm động niệm là cảnh giới Phật.
Khởi tâm động niệm, nhưng không có phân biệt,
chấp trước, đó là cảnh giới Bồ Tát. Khởi
tâm động niệm, c̣n có phân biệt, nhưng chẳng chấp
trước, là cảnh giới A La Hán. Nếu khởi tâm
động niệm, phân biệt, chấp trước thảy
đều có, đấy cảnh giới của chúng sanh
trong lục đạo.
Chúng ta làm
thế nào để nâng cao cảnh giới? Từ lục
đạo phàm phu nâng lên A La Hán, tâm thanh tịnh; nâng lên tới
Bồ Tát, tâm b́nh đẳng; nâng lên tới Phật, đại
triệt đại ngộ, giác rồi! Đấy là học
Phật, những ǵ quư vị đạt được
[trong học Phật] là vĩnh hằng. Đấy là thật,
chẳng giả. Nếu là giả th́ lời Thích Ca Mâu Ni Phật
là giả, làm sao có thể lưu truyền hơn hai ngàn năm
trăm năm? Đức Thế Tôn nói rất cặn kẽ,
pháp vận của Ngài là một vạn hai ngàn năm, hiện
thời vẫn chưa đến ba ngàn năm, sau này c̣n có
chín ngàn năm nữa. Do vậy, đối với [những
dự báo về] ngày tận thế, thế giới sẽ
không có ngày tận thế, địa cầu sẽ tồn
tại; nhưng con người có thể tồn tại hay
không? Điều này cũng rất khó nói! Địa cầu
sẽ tồn tại, con người sẽ chẳng hoàn toàn
bị tiêu diệt trên thế giới này, [nhân loại hoàn
toàn diệt vong] là chuyện chẳng thể xảy ra. Tuy trên
thế giới có tai nạn, một phần nhân loại bị
chết, nhưng vẫn c̣n có một phần tồn tại
trên thế gian này. Dẫu cho pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật
bị diệt, kinh Pháp Diệt Tận đă nói rất rơ ràng,
thế giới này vẫn tồn tại. Khi pháp vận của
Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng c̣n, Địa Tạng Vương
Bồ Tát sẽ thay Phật giáo hóa chúng sanh. Dùng
phương pháp ǵ để giáo hóa? Dạy về hiếu.
Địa Tạng Bồ Tát là hiếu tử, kinh Địa
Tạng giảng về “hiếu
thân, tôn sư” (hiếu thảo cha mẹ, tôn kính thầy).
Hai điều ấy có thể cứu
chúng sanh, giúp chúng sanh ĺa khổ được vui, hiếu
thân tôn sư! Măi cho đến khi vị Phật kế tiếp
xuất thế, vị Phật thứ năm là Di Lặc Bồ
Tát tới thế gian này làm Phật, khi ấy, Phật pháp
lại hưng vượng. Do vậy, thế giới này là
liên tục, chẳng bị tiêu mất. Hiện tại, trên
thế gian này rất nhiều người kẻ nói tới
ngày tận thế, nhưng chẳng phải là ngày diệt
vong, thế giới có tai nạn là thật. Do vậy, phải
học kinh giáo. Ở đây, trong kinh giáo, quả thật không
chỉ là triết học tối cao, khi tôi học Phật,
tiên sinh Phương Đông Mỹ giới thiệu, kinh Phật
là triết học tối cao. Chúng tôi học lâu như thế,
tôi học Phật tới năm nay là năm mươi chín
năm, sang năm là sáu mươi năm, vừa đúng
một giáp, tôi phát hiện trong kinh Phật không chỉ có
triết học cao cấp, mà c̣n có khoa học cao cấp.
Khoa học lẫn triết học hiện đại đều
chẳng thể sánh bằng kinh Phật. Hết sức đáng
tiếc, những khoa học gia, triết học gia không có cách
nào tiếp xúc Phật pháp, v́ sao chẳng tiếp xúc? Do có những
ngộ nhận to lớn, ngỡ Phật giáo là tôn giáo, mê
tín, chẳng muốn tiếp xúc. Tổn thất ấy rất
lớn, nếu họ tiếp xúc, tôi tin tưởng sự
nghiên cứu của họ sẽ được nâng cao trên
một mức độ lớn. Quư vị nói xem: Hiện
thời đă phát hiện, khoa học gia cho biết, nước
có kư ức, nếu khoa học thật sự chứng thực
điều này, Vật Lư Học hiện đại phải
thay đổi quan điểm hoàn toàn. Quư vị thấy: Đối
với sự phát hiện ấy, từ ba ngàn năm trước,
trong kinh Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng rất
tỉ mỉ, nay quư vị mới phát hiện, chậm trễ
ba ngàn năm!
Đối
với ba thứ vi phạm này, chúng ta phải biết: Viễn
ly, điều thứ nhất là “viễn
ly ngă tâm tham trước tự thân” (xa ĺa tâm chấp ngă,
tham đắm thân ḿnh), thứ hai là “viễn ly vô an chúng sanh tâm” (xa ĺa cái tâm khiến
cho chúng sanh chẳng an ổn), thứ ba là “viễn ly cung kính cúng dường tự thân tâm”
(xa ĺa cái tâm cung kính, cúng dường thân ḿnh). Đó là điều
kiện căn bản của niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ. Nếu chúng ta phạm những điều ấy,
tới khi lâm chung chẳng thể văng sanh, cũng chớ
nên trách pháp môn chẳng linh, trật rồi! Hăy trách chính
ḿnh, chính quư vị khởi tâm động niệm chẳng tương
ứng. Tiếp theo là nói về thuận Bồ Đề
môn. “Thuận Bồ Đề
môn giả, Bồ Tát viễn ly như thị tam chủng Bồ
Đề môn tương vi pháp, tức đắc tam chủng
tùy thuận Bồ Đề môn pháp” (Thuận Bồ
Đề môn là Bồ Tát xa ĺa ba món trái nghịch Bồ
Đề môn như thế, sẽ đắc ba môn tùy thuận
Bồ Đề). Tiếp đó, cũng nói: “Hà đẳng vi tam?” (Những
ǵ là ba), thứ nhất là “vô
nhiễm thanh tịnh tâm”. Tâm thanh tịnh chẳng ô nhiễm,
tâm ô nhiễm sẽ chẳng thanh tịnh. Thứ ǵ ô nhiễm?
Chúng tôi nói thô thiển một chút, tôi chẳng dùng kinh Phật,
v́ kinh Phật quá sâu, cũng chẳng dễ hiểu; nhưng
kinh Phật mới thật sự hữu dụng, v́ những
ǵ kinh nói chính là tiêu chuẩn. Tôi nói tiêu chuẩn thấp hơn
[tiêu chuẩn trong] kinh Phật một chút, tôi thường
nói mười sáu chữ “buông xuống
tự tư tự lợi, buông xuống tiếng tăm lợi
dưỡng, buông xuống ngũ dục lục trần,
buông xuống tham, sân, si, mạn”. Đấy là cảnh
giới ǵ? Đến cửa ngơ nhà Phật, nhưng chưa
vào cửa. Phải biết là: Đấy là đă đến
cửa. Đă đến cửa, phải nâng cao [cảnh giới] hơn nữa là vào cửa th́ ba thứ
thuận Bồ Đề tâm này quư vị sẽ có thể
làm được. Do vậy, tôi nói tới “tiền
phương tiện”, nay chúng ta mỗi ngày đều phải
làm, phải luyện tập, phải nỗ lực. Tích cực
thực hiện, khởi tâm động niệm đừng
nghĩ tới chính ḿnh, khi khởi tâm động niệm hăy
nghĩ đến người khác. Tôi thường dạy
người khác hăy nghĩ tới hai chuyện: Chánh pháp của
Thích Ca Như Lai tồn tại lâu dài, chúng ta phải báo ân Phật.
Thứ hai là phải nghĩ đến chúng sanh khổ nạn,
chúng ta nên làm như thế nào để giúp đỡ họ.
Để giúp đỡ họ, Phật, Bồ Tát nói “giảng
kinh giáo học chính là giúp đỡ họ”, thật sự giúp
đỡ.
Từ chỗ
này, chúng ta thấu hiểu thật sâu: Giáo dục tôn giáo rất
quan trọng. Kinh điển của mỗi tôn giáo đúng là
quư báu, trong ấy, giảng những ǵ? Không ǵ chẳng phải
là luân lư, đạo đức, nhân quả, triết học,
khoa học, hết thảy đều giảng về nội
dung này, chỉ cần chúng ta cùng nhau học tập, sẽ
hiểu rơ. Thời cổ, giao thông chẳng
thuận tiện, chẳng cần nói xa xôi ǵ, ngay trong thời
kỳ Kháng Chiến, tức lúc Đệ Nhị Thế Chiến,
nước Trung Hoa vẫn rất lạc hậu. Khi ấy,
rất lạc hậu, giao thông rất bất tiện, lữ
hành đều là bộ hành, không có xe cộ. Lữ hành th́ phương
tiện giao thông thuận tiện nhất là thuyền nhỏ,
thuyền mành, thuyền buồm. Trong tám năm Kháng Chiến,
tôi đi mười tỉnh, gần như cũng đi
hai vạn dặm đường, chỉ đi bằng hai
chân. Truyền thông không có; do vậy, bao nhiêu người ở
một thôn trang, ngay cả một ṭa thành cũng chưa hề
vào, đến già chết vẫn chưa lui tới. Hoàn cảnh
xă hội là như vậy, chẳng giống như hiện
thời. Hiện thời, giao thông thuận tiện, mở đường
cao tốc, xe cộ nhiều, thông tin phát triển, trên khắp
thế giới, một chút chuyện xảy ra ở đâu,
cả thế giới biết ngay lập tức. Do đức
Phật ở trong xă hội đóng kín trước đây,
nên kinh Phật nói: “Nên dùng thân ǵ để hóa độ bèn
hiện thân ấy”. Trong các sắc dân bất đồng, văn
hóa bất đồng, khu vực bất đồng, Phật
hiện thân thuyết pháp, hiện các thân khác nhau, thật ra
là một chuyện. Xă hội hiện tại biến đổi,
cả địa cầu biến thành làng địa cầu,
thật vậy! Quư vị đi giáp ṿng địa cầu mất
hai ngày, t́nh trạng như vậy đó! Trong t́nh trạng ấy,
chư Phật, Bồ Tát, hết thảy các vị thần,
trong quá khứ truyền giáo tại các địa phương,
nay cũng phải dung hội thành nhất thể. Nếu
không, sẽ kèn cựa, phân biệt, chấp trước. V́
thế, tôn giáo phải đoàn kết, phải biến thành
một nhà. Ta biết trong tôn giáo nói đến một chân
thần. Trong quá khứ, một vị chân thần có vô
lượng vô biên hóa thân, phân thân, nay địa cầu biến
thành một nhà, các phân thân ấy cũng phải biến
thành một thân th́ mới chẳng đến nỗi nẩy
sanh đối lập, mâu thuẫn, xung đột, xă hội
sẽ an định. Đây là một đại công tác cần
kíp bức thiết trong lúc này, nhất định phải
thực hiện tốt, phải nỗ lực thực hiện
công tác giáo dục tôn giáo. Cũng như phải giáo dục luân
lư, luân lư là nói tới những mối quan hệ: Quan hệ
giữa con người với nhau, quan hệ giữa con người
và hoàn cảnh tự nhiên. Đạo đức là làm thế
nào để giữ ǵn tốt đẹp những mối quan
hệ ấy; đấy là đạo đức. Nhân quả
càng quan trọng hơn, thiện nhân, thiện quả, ác
nhân, ác báo, chẳng giả tí nào. Ngoài ra, có một số ít
người trong Phật pháp gọi là người thượng
căn, hoặc thượng thượng căn mong mỏi
nâng cao cảnh giới, trong tôn giáo có khoa học, có triết
học, giúp họ nâng cao hơn.
“Vô nhiễm thanh tịnh tâm, bất
vị tự thân cầu an lạc cố” (tâm vô nhiễm
thanh tịnh, chẳng nhằm cầu an lạc cho bản
thân). Thưa các đồng học, chẳng cầu an lạc
cho chính ḿnh, sẽ là chân an lạc. Cầu an lạc cho tự
thân sẽ thật sự có phiền năo. Thật đấy,
chẳng giả đâu! V́ sao? Có ngă th́ có phiền năo, có tham,
sân, si, mạn; chẳng v́ chính ḿnh, vô ngă sẽ chẳng có
phiền năo. Đây là một cửa ải trong Phật pháp.
Chúng ta không có cách nào làm được vô ngă, v́ thế, tôi dạy
người khác thực hiện bằng cách buông tự tư
tự lợi xuống. Vẫn có Ngă, nhưng ta buông tự
tư tự lợi xuống, khởi tâm động niệm
nghĩ tới người khác, chẳng nghĩ tới
chính ḿnh. Ta chưa buông xuống, phải buông xuống th́ mới
thật sự nhập Phật pháp. Do vậy, tôi nói tôi chỉ
dẫn người khác đến cửa ngơ! “Bồ Đề thị vô nhiễm
thanh tịnh xứ, nhược vị tự thân cầu lạc,
tức vi Bồ Đề môn. Thị cố, vô nhiễm
thanh tịnh tâm thị thuận Bồ Đề môn” (Bồ
Đề là chỗ vô nhiễm thanh tịnh. Nếu v́ chính ḿnh
mà cầu an vui, tức là trái nghịch Bồ Đề môn.
V́ thế, tâm vô nhiễm thanh tịnh là thuận Bồ
Đề môn). Bồ Đề là trí huệ chân thật, vô
vi Pháp Thân, Văng Sanh Luận nói như vậy! Câu này có ư nghĩa
hoàn toàn giống với một câu do Thích Ca Mâu Ni Phật
đă nói trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật nói bằng cách
khác: “Hết thảy chúng sanh
đều có trí huệ và đức tướng của Như
Lai”. Như Lai là tự tánh, trong tự tánh của hết
thảy chúng sanh có trí huệ viên măn; v́ sao trí huệ ấy
chẳng tỏ lộ? V́ hiện thời tâm chúng ta có ô nhiễm,
nên nó không thể tỏ lộ được! Nếu tâm
thanh tịnh, trí huệ sẽ tỏ lộ. Bồ Đề
là trí huệ; chỉ cần quư vị không có ô nhiễm, trí huệ
sẽ lộ ra. Trong tự tánh vốn có trí huệ, chẳng
phải do học được, mà cũng không do tu thành, trong
tự tánh vốn sẵn có. Không chỉ có trí huệ, mà c̣n có
đức năng, tướng hảo, thứ ǵ cũng trọn
đủ, thứ ǵ quư vị cũng chẳng cần phải
cầu! Chỉ cần trừ sạch những chướng
ngại, thảy đều buông xuống, toàn bộ trí huệ,
đức năng, tướng hảo của quư vị hiện
tiền, có h́nh dạng ra sao? Quư vị thấy thế giới
Cực Lạc và thế giới Hoa Tạng là như vậy
đó! Đâu cần phải cực nhọc dường ấy?
Ở nơi đây cuộc sống khổ quá. Tới Tây
Phương Cực Lạc thế giới, quư vị chẳng
cần vàng, bạc, của cải; v́ sao? Người ta dùng
vàng ṛng để lót đất, quư vị cần vàng để
làm ǵ? Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, châu
báu là vật liệu xây dựng nhà cửa, dựng nhà, lát tường.
Trong thế gian này, mọi người thấy châu báu rất
hiếm lạ, v́ sao? Quá ít! Sang bên ấy, [châu báu] quá nhiều,
lấy chẳng hết, dùng chẳng cạn, quư vị cần
chúng để làm ǵ? Nói theo thế giới này, quư nhất chính
là ǵ? Là không khí, con người thiếu không khí trong năm phút
sẽ chẳng thể sống sót. Ai tham không khí? Có ai tích cóp
không khí như bảo bối? Không khí c̣n quan trọng hơn
vàng, bạc, châu báu. Trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới, tài nguyên quá phong phú, sau khi tiếp xúc, thứ ǵ cũng
chẳng màng. Quư vị c̣n cảm thấy những thứ ấy
thừa thăi, phiền phức, cần chúng để làm ǵ! Do
vậy, tâm thanh tịnh sanh ra trí huệ.
Thứ hai, “an thanh tịnh tâm”. An ổn tương
ứng với tâm thanh tịnh, tâm an, thân an, cũng phải
giúp cho hết thảy chúng sanh thân tâm yên
ổn. Chúng ta nghĩ tới chính ḿnh, mà cũng phải
nghĩ tới người khác, chính chúng ta mong đạt được
th́ cũng phải giúp người khác đạt được.
An như thế nào? Buông xuống liền yên ổn. Nếu
quư vị chẳng buông xuống, thân tâm vĩnh viễn chẳng
thể yên ổn. Buông ngũ dục lục trần xuống,
đấy là bên ngoài, cảnh giới bên ngoài phải buông
xuống, bên trong phải buông tham, sân, si, mạn xuống,
tâm liền yên ổn. Sống trong thế gian này, hết thảy
tùy duyên, chẳng phan duyên, thứ ǵ cũng đều tốt,
chẳng có ǵ bất hảo, quư vị sống vui sướng
lắm, tự tại lắm! Đức Phật dạy chúng
ta tùy duyên, đừng phan duyên; phan duyên là chính ḿnh nghĩ nhất
định phải như thế nào đó, như vậy
th́ quư vị sẽ bị khổ. Hằng thuận chúng
sanh, tùy hỷ công đức, sẽ có vui sướng. “Vị bạt nhất thiết
chúng sanh khổ cố” (v́ dẹp khổ cho hết thảy
chúng sanh), giúp hết thảy chúng sanh ĺa khổ được
vui, nêu gương cho người khác thấy, thân hành, thân
phải làm được [rồi mới] ngôn giáo. Do vậy,
chúng ta thấy bậc đại thánh đại hiền xưa
nay trong ngoài nước, các Ngài đă chọn nghề nghiệp
ǵ trong một đời? Dạy học, dạy chữ. Thời
cổ, người đọc sách bèn theo đuổi sự
nghiệp dạy học. Nếu đỗ đạt, họ
sẽ ra làm quan. Thi không đậu, sẽ theo nghề dạy
học. Thuở ấy, tuy dạy học rất thanh bần,
gọi là “cùng tú tài” (tú tài
nghèo túng), hết sức vất vả, điều kiện
sinh hoạt vật chất rất tệ, nhưng địa
vị xă hội rất cao. V́ sao? Người ấy chăm
sóc thế hệ kế tiếp, tận lực tiến hành,
những ǵ được nói trong Đệ Tử Quy hiện
thời, người ấy đều làm được.
Cảm Ứng Thiên người ấy thực hiện được.
Quư vị thấy những ǵ Liễu Phàm Tứ Huấn đă
nói, quư vị đều hiểu. Người ấy thật
sự làm được, nêu gương rất tốt
trong xă hội, biết đủ, thường an vui, tạo
thành một phong khí rất tốt đẹp trong xă hội.
Con người không có tâm tham, xă hội sẽ yên ổn, nơi
ấy sẽ chẳng có tai nạn. Do vậy, tuy những người
ấy thoạt nh́n chẳng có ǵ nổi bật, nhưng đă
cống hiến rất lớn đối với xă hội.
Nghề thứ hai được xă hội tôn trọng là
thầy thuốc. Ở Trung Quốc, vào thuở trước,
một là dạy học, được gọi là Phu Tử,
thời cổ gọi họ là Phu Tử, tức là thầy;
thứ hai là thầy thuốc, thầy lang, được
mọi người tôn trọng. Thầy lang giúp đỡ
bệnh nhân chẳng đ̣i hỏi tiền bạc, ông ta là
người cứu mạng, làm sao có thể đ̣i tiền?
Bệnh chữa lành rồi, tùy theo gia cảnh mà quư vị tặng
một chút lễ vật báo đáp, chứ thầy lang chẳng
thể chủ động đ̣i hỏi. Gia cảnh quư vị
khá hơn sẽ tặng nhiều hơn một chút; hoàn cảnh
khó khăn, tặng ít một chút. Nếu thật sự rất
khó khăn, ngay cả thuốc men thầy lang đều biếu
không. Do vậy, [thầy lang] được mọi người
tôn kính. Không giống như hiện thời, hiện nay chỉ
mong cầu lợi lộc. Tôi nghe nói ở bệnh viện,
bệnh nhân bệnh nặng vẫn ở ngoài cửa, lúc không có tiền sẽ chẳng
được chữa trị, quá khác biệt so với y
đạo thời cổ! Hiện nay có y mà chẳng có đạo;
trước đây là có y, có đạo. Hiện nay c̣n có một
chuyện, nghe nói kẻ làm thầy mở lớp dạy
thêm để kiếm rất nhiều tiền. Dạy trong
nhà trường, giữ lại phân nửa chẳng giảng,
giữ lại kiến thức để ép các ngươi
nhất định phải đi học thêm với
ta, ta sẽ giảng bổ sung phân nửa c̣n lại; đó
là muốn kiếm tiền, mở “tiệm dạy chữ!”
Do vậy, lẽ nào thế gian này chẳng có tai nạn?
Ngay cả hai hạng người này mà c̣n chẳng giữ vững
[phẩm chất], đều bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Trước kia, hai hạng người này chẳng bị ô
nhiễm, thật sự thanh tịnh, được người
ta tôn kính.
V́ thế,
xă hội động loạn, tai nạn liên tiếp xảy
ra, là có đạo lư, có nguyên nhân, chúng ta phải nên t́m ra những
nguyên nhân ấy, làm thế nào để tiêu trừ những
nguyên nhân đó, thế gian này sẽ được an định.
Hết thảy đều phải thực hiện từ
chính ḿnh. Cổ thánh tiên hiền dạy chúng ta: “Hành hữu bất đắc, phản
cầu chư kỷ” (làm không được th́ phải
quay lại xét ḿnh), không nên cầu người khác. Cầu
người khác, tuyệt đối sẽ làm không
được, quư vị sẽ thất vọng, phải
làm từ chính ḿnh. Chính ḿnh nghiêm túc thực hiện, sẽ
có hiệu quả, thật sự làm sẽ có hiệu quả.
Từ bản thân chúng ta sẽ ảnh hưởng cả
nhà, từ một nhà ảnh hưởng tới thân thích, bè
bạn, láng giềng, làng xóm. Tại Úc, chúng tôi thành lập
một Tịnh Tông học viện rất nhỏ, quy mô rất
nhỏ, mười năm rồi. Qua mười năm,
thành tựu sơ bộ là ảnh hưởng đến
thành phố. Thành phố ấy có mười vạn người,
là một thành phố nhỏ, phong khí của thành phố nhỏ
ấy tốt hẳn lên. Mỗi ngày đều làm, làm
mười năm. Năm nay, chúng tôi đă nghĩ muốn
thực hiện đa nguyên văn hóa, đoàn kết tôn
giáo. Cách làm ra sao? Làm từ nhà của chúng tôi. Chúng tôi là Phật giáo, tôi mời mục sư Cơ Đốc
Giáo, linh mục Thiên Chúa giáo, thầy cả[3] đạo Hồi, chính thức mời
họ làm giáo sư, mời họ giảng cho chúng ta nghe
kinh Cổ Lan (Koran)[4], giảng Tân Cựu Ước. Tôi c̣n mời
một trưởng lăo Do Thái Giáo, ông ta nhận lời, tôi
mời ông ta giảng sáu trăm điều giới luật
của đạo Do Thái. Chúng ta học kinh điển Phật
giáo và cũng học kinh điển của tôn giáo khác, như
thế sẽ hóa giải sự hiểu lầm, chẳng có
đối lập, chẳng có xung đột, đó là biện
pháp căn bản để hóa giải xung đột. Tôi
tin tưởng học viện của chúng ta tiến hành một
đôi ba năm, chúng ta học tốt đẹp, tôi tin các
tôn giáo khác sẽ bị cảm động. Chúng ta học
những thứ của họ, những thứ của họ
chúng ta đều biết, nhưng họ không biết Phật
giáo; binh pháp nói: “Tri kỷ tri bỉ,
bách chiến bách thắng” (biết ḿnh, biết người,
trăm trận trăm thắng). Tôi tin tưởng trong
tương lai họ đều phải học tập như
vậy. Phong khí này khởi lên, tốt lắm, các tôn giáo trên
thế giới là một nhà, hóa giải xung đột, giúp
ích cho xă hội yên ổn, thế giới ḥa b́nh rất lớn.
Do vậy, cơ sở tôn giáo, tự viện am đường
Phật giáo, những giáo đường của các tôn giáo
khác, mỗi ngày đều phải giảng kinh, giảng đạo, mỗi ngày các đồng tu cùng nhau
học tập, cùng nhau chia sẻ tâm đắc, phong khí trở
nên tốt đẹp! Hiện nay, chúng ta dùng phương tiện
truyền thông, dùng Internet, dùng vệ tinh truyền bá ra ngoài,
để các đồng học hữu duyên trên thế giới
cùng nhau chia sẻ. Ai là người hữu duyên? Chịu mở
TV lên nghe đều là người có duyên.
Thứ
ba là “lạc thanh tịnh tâm”,
chữ 樂 cũng có thể
đọc là Nhạo, nó có hai âm đọc, nó có hai cách
đọc:
- Đọc là Nhạo,
có nghĩa là yêu thích.
- Đọc là Lạc,
có nghĩa là vui sướng.
“Dục linh nhất thiết chúng sanh đắc đại
Bồ Đề cố, nhiếp thủ chúng sanh sanh bỉ
quốc độ cố. Bồ Đề thị tất
cánh thường lạc xứ, nhược bất linh nhất
thiết chúng sanh đắc tất cánh thường lạc
giả, tắc vi Bồ Đề môn” (v́ muốn làm cho hết thảy chúng
sanh đắc đại Bồ Đề, nhiếp thủ
chúng sanh sanh về cơi ấy. Bồ Đề là chỗ thường
vui rốt ráo. Nếu chẳng làm cho hết thảy chúng
sanh được thường lạc rốt ráo, tức
là trái nghịch Bồ Đề môn). Phải có cái tâm này, ưa
thích, vui vẻ, mong mỏi hết thảy chúng sanh ĺa khổ
được vui, ĺa khổ rốt ráo, được vui
rốt ráo. Ĺa khổ rốt ráo là hết thảy các đau
khổ đều xa ĺa, vĩnh viễn chẳng c̣n nữa!
Tâm ấy to lớn, đó là tâm của Phật, Bồ Tát; tâm
Phật, Bồ Tát phổ độ hết thảy chúng
sanh. Quư vị ở trong lục đạo, dẫu chỉ
dạy quư vị, giúp quư vị nỗ lực tu thiện, quư
vị sanh lên trời [vẫn chưa phải là ĺa khổ được
vui rốt ráo]. Thiện có lớn hay nhỏ khác nhau. Trong Tứ
Huấn dành cho gia đ́nh, tiên sinh Liễu Phàm đă giảng
thiện có tám thứ, giảng rất tỉ mỉ. Quả
báo khác nhau, có [điều thiện khiến cho người
hành] được phú quư trong nhân gian, có người hưởng
thiện quả trong Dục Giới, Dục Giới có sáu tầng
trời[5], phước báo khác nhau. Lên cao hơn c̣n
có Sắc Giới Thiên, c̣n có Vô Sắc Giới Thiên, hưởng
phước trời, nhân gian chẳng có cách ǵ so sánh được.
Có phải là rốt ráo hay không? Không phải là rốt ráo, v́
sao? [Chúng sanh] trong lục đạo đều có thọ mạng.
Thọ mạng dài nhất chính là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng
Xứ Thiên thuộc Vô Sắc Giới Thiên, đức Phật
dạy: Người nơi ấy thọ mạng dài tám vạn
đại kiếp. Một đại kiếp là một lần
thế giới thành, trụ, hoại, không, thời gian dài
như thế đó! Thọ mạng tính bằng con số
thiên văn như vậy. Tám vạn đại kiếp là [thời
gian] tinh hệ, tức Thái Dương Hệ này thành, trụ,
hoại, không tám vạn lần, nhưng đến lần
thứ tám vạn th́ sao? Đến lúc ấy, quư vị sẽ
đọa lạc, chẳng thoát khỏi luân hồi, nghiệp
bất thiện lại hiện tiền, chẳng biết sẽ
đọa vào đâu. Do vậy, chẳng phải là rốt
ráo!
Thật
sự có thể giúp quư vị vượt thoát lục đạo
luân hồi là sanh vào tứ thánh pháp giới, tứ thánh pháp
giới là Tịnh Độ, thọ mạng rất dài, nhưng
chưa thể kiến tánh. Chưa thể trở về tự
tánh, vẫn đau khổ! Nhưng người ấy hoàn
toàn chẳng có những nỗi khổ trong lục đạo,
hoàn toàn chẳng có tam khổ hay bát khổ. Vẫn chưa
thể nói là người ấy được an vui rốt
ráo, an vui rốt ráo nhất định phải là giúp người
ấy thành Phật, cũng là giúp cho người ấy đại
triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh th́ mới thật
sự giải quyết vấn đề; nhưng chuyện
này há phải là chuyện dễ dàng ư? Pháp môn Tịnh
Tông thù thắng [ở chỗ] quư vị có thể thành tựu
trong một đời, chẳng cần nâng cao lên từng tầng
một, [tiến từ từ từng bậc] khổ lắm,
phiền phức lắm! Ngay trong một đời này, từ
trong loài người bèn vượt thoát, chẳng cần phải
trải qua sáu tầng trời Dục Giới, mười
tám tầng trời Sắc Giới, chẳng cần thiết!
Từ trong nhân gian thoát ra, đó là “hoành siêu” (vượt thoát theo chiều ngang), có thể
thành tựu trong một đời. Đấy là nói chư Phật,
Bồ Tát “dục linh nhất
thiết chúng sanh đắc đại Bồ Đề cố,
nhiếp thủ chúng sanh sanh bỉ quốc độ” (v́
muốn làm cho hết thảy chúng sanh đắc đại
Bồ Đề, nhiếp thủ chúng sanh sanh về cơi ấy),
“cơi ấy” chính là Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Quư vị thấy
Thích Ca Mâu Ni Phật là như vậy, suốt đời giảng
kinh, thuyết pháp bốn mươi chín năm, nói rất
nhiều kinh, nói rất nhiều lư luận, rất nhiều
phương pháp, v́ sao? Chúng sanh căn tánh khác nhau. Giống
như ăn món ǵ đó, khẩu vị [mỗi người]
khác nhau, có người thích ăn ngọt, có kẻ ưa ăn
cay. Đức Phật đại khai phương tiện
môn, quư vị mong điều ǵ, Ngài bèn giúp quư vị điều
ấy, thật sự khó có! Nhưng môn rốt ráo chính môn [niệm
Phật] này sẽ giúp cho quư vị đạt được
sự vui rốt ráo.
Thuở
tại thế, đức Thế Tôn nhiều lần tuyên
giảng bộ kinh này, quư vị bèn hiểu rơ đạo lư
này. Chẳng phải là giảng một lần! Đọc
các bản dịch, [chúng ta thấy rơ] tối thiểu Ngài
giảng ba lần. V́ sao? Nếu là một lần, nguyên bản
là một bộ kinh, dẫu được dịch rất
nhiều lượt, nhất định là đại
đồng tiểu dị, chẳng sai biệt rất lớn,
nhưng năm bản dịch kinh này sai khác quá lớn; do vậy,
cổ đại đức phán đoán tối thiểu là
giảng ba lần. Chúng ta biết tại Trung Quốc, bộ
kinh này được phiên dịch nhiều nhất, có tất
cả mười hai bản dịch, nhưng bảy bản
bị thất truyền, t́m không được. Trong [mục
lục của] Đại Tạng Kinh có ghi chép, có ghi tựa
đề kinh, tuy có ghi chép, nhưng sách th́ t́m không được.
Nếu t́m được, c̣n có thể là thấy những
chỗ khác nhau, sai biệt rất lớn so với năm bản
dịch trong hiện tại, [đủ để chứng
tỏ] không phải chỉ có ba lần [tuyên giảng]. V́ sao? Chúng ta hiểu ư nghĩa này sẽ thấu
hiểu: Đức Phật nhiếp thủ chúng sanh, mà cũng
là giúp A Di Đà Phật chiêu sinh (chọn học tṛ). A Di
Đà Phật giống như một vị hiệu trưởng,
trường học được lập bên cơi kia (cơi Cực
Lạc), mười phương chư Phật đều
thay A Di Đà Phật chiêu sinh: Nếu muốn thật
sự thành tựu viên măn trong một đời, hăy đến
nơi ấy. V́ thế, Tây Phương Cực Lạc thế
giới là trường học, thiết bị của người
ta rất tốt, hết thảy đều tề chỉnh,
hoàn bị. Quư vị chẳng thể tới đó rồi [ở
ĺ nơi đó] chẳng đi, đâu ra thể thống ǵ!
Đó là trường học, chẳng phải là nhà của
quư vị. Nếu quư vị nghĩ đó là quê nhà của ḿnh,
sau khi đến được đó, sẽ vĩnh viễn
chẳng rời khỏi, có ư niệm ấy sẽ chẳng
đến được, cơi ấy chẳng thâu nhận quư
vị! Nhất định là đến học, sau khi học
xong, phải vào mười pháp giới, vào trong lục đạo
của hết thảy các cơi Phật trọn khắp pháp giới
hư không giới để giúp chúng sanh, đến đó
dạy học. Ở bên đó (cơi Cực Lạc) là bồi
dưỡng, huấn luyện, nhất định bồi
dưỡng, huấn luyện quư vị chứng đắc
vô thượng Bồ Đề, đó cũng là Phật quả
rốt ráo. Sau đấy, quư vị mới rời khỏi,
đến các nơi giáo hóa chúng sanh. Khi ấy, quư vị thật
sự t́m được nhà, nhà ở nơi đâu? Trọn
khắp pháp giới hư không giới là nhà của chính
ḿnh. Tất cả hết thảy chúng sanh và chính ḿnh là một
Thể, quư vị sẽ tự nhiên giúp những chúng sanh mê
hoặc, điên đảo trở về tự tánh.
Trở về
tự tánh, có ảnh hưởng đến chính ḿnh hay chăng?
Thưa quư vị, chẳng hề ảnh hưởng mảy
may, v́ sao? Người ấy thật sự giác ngộ, chẳng
bị ô nhiễm. Ngày nay, chúng ta bị ảnh hưởng
là do công phu chẳng đủ, cảnh giới hiện tiền
bèn chẳng chống đỡ được! Quư vị nói
giáo dục luân lư, giáo dục đạo đức khá lắm,
nhưng gặp phải danh vọng cao sang, lợi lộc
trọng hậu, sẽ cầm ḷng không được, biết
rơ mà vẫn cố phạm, vẫn khởi tâm tham. Chẳng
dễ dàng! Thật sự giác ngộ, biết những thứ
ấy là giả! Danh vọng cao sang, bảo quư vị làm Tổng
Thống, có muốn làm hay không? Chẳng làm! Thời cổ,
bảo quư vị làm hoàng đế, bèn trốn cho thật
xa. V́ sao? V́ hiểu nhân quả, biết địa vị ấy
chẳng dễ làm! Nếu làm chẳng tốt, trong tương
lai sẽ bị ác báo, quư vị giữ chức vị này nhất
định phải làm tốt. Làm tốt cũng chẳng
có công, v́ sao? Quư vị phải làm những chuyện cần
nên làm; nếu làm không tốt, nhất định bị đọa
lạc, chẳng phải là chuyện dễ dàng! Lợi lộc
trọng hậu, quư vị có phước báo lớn dường
ấy hay chăng? Nếu quư vị chẳng có phước
báo ấy, hễ của cải đưa đến th́ [đồng
thời] tai nạn cũng xảy đến, do không có phước
to như vậy! Phước do quư vị tu trong kiếp
trước, chính ḿnh nhất định phải hiểu điều
này, [điều ǵ chính ḿnh] chẳng đáng nên đạt được
th́ nhất định chẳng cầu; người ta cho
quư vị, quư vị cũng đừng cần tới. Cho
quư vị tức là họa hại [đưa đến], quư
vị có dám muốn hay chăng? Có trí huệ, hiểu nhân quả
th́ tiếng tăm, lợi dưỡng bày ra trước mặt
vẫn như như bất động, chẳng khởi
tâm động niệm, đó là đúng!
Gần đây,
có một đồng học tặng cho một quyển sách,
trong ấy nói Khải Tát (Caesar) xứ La Mă phái một đạo
quân hơn mười vạn người xâm lược
Trung Quốc. Quư vị thấy từ La Mă, thuở ấy,
theo đường bộ có kỵ binh, nhưng chẳng phải
là mười vạn người đều cưỡi ngựa.
V́ vậy, họ thay phiên nhau cưỡi ngựa, phân nửa
đi bộ, c̣n phân nửa kia cưỡi ngựa. Quư vị
nghĩ xem: Từ La Mă tới Trung Quốc, c̣n phải xuyên
qua rừng rậm, c̣n phải băng qua đại sa mạc,
quư vị nói xem gian khổ chừng nào! V́ vậy, mười
vạn người đến Trung Quốc, gần như
là bệnh tật hay chết, quá nửa chẳng c̣n, đánh
vài trận cũng chết không ít người. Do vậy, đến
Trung Quốc, quân số chẳng đông, cuối cùng toàn bộ
đoàn quân bị thất trận, đều chết ở
tỉnh Cam Túc, Trung Quốc. Cuốn sách ấy kể câu
chuyện này. Linh hồn những người ấy chẳng
tiêu tan, đoàn quân ấy vẫn c̣n, đó là quỷ, không phải
là người, khổ chẳng thể nói nổi, khổ
chết được! Họ gặp Bồ Tát, Bồ Tát thương
xót bọn họ, mỗi mồng Một, ngày Rằm đều
cho họ ăn, bố thí họ. Ngài bảo họ: “Trung Quốc
chẳng phải là chỗ của quư vị, đến làm
ǵ?” Câu này có ư nghĩa rất quan trọng! Trong mạng quư vị
không có cuộc đất này, nhưng quư vị đến
nơi này, nên toàn quân bị diệt, [đất này] chẳng
phải của quư vị mà! Điều này nói rơ: Dùng thủ
đoạn chiến tranh để chiếm được,
vẫn là do trong mạng quư vị sẵn có, quư vị nói có
phải là oan uổng hay không? Tôi lập tức nghĩ đến
chuyện người Nhật xâm lược Trung Quốc,
đánh nhau tám năm, cuối cùng đầu hàng. Trung Quốc
chẳng phải của họ, họ chẳng có phước
báo ấy! Mới hiểu cổ nhân nói: “Nhất ẩm, nhất trác, mạc phi tiền định”
(một miếng ăn, một hớp uống, không ǵ chẳng
do định sẵn). Nếu trong mạng không có, dùng phương
pháp ǵ quư vị cũng đều chẳng đoạt được,
đều chẳng đạt được. Trong mạng
có, quư vị chẳng cần phương pháp nào, mà đến
lúc, nó sẽ được đưa tới. Cầu ǵ?
Không cần cầu, tâm định rồi, hăy khéo tu đức.
Quư vị thật sự mong cầu, cầu của cải,
cầu công danh, cầu phú quư, “Phật
thị môn trung, hữu cầu tất ứng” (trong cửa
nhà Phật, có cầu ắt ứng) Phật dạy chúng ta cách
cầu như thế nào? Bố thí. Quư vị mong có
được của cải, hăy tu Tài Bố Thí, càng thí
càng nhiều. Quư vị muốn được thông minh, trí huệ,
hăy tu Pháp Bố Thí. Quư vị mong khỏe mạnh, trường
thọ, hăy tu Vô Úy Bố Thí.
Thuở
tôi c̣n trẻ, vận mạng rất khổ. Thầy bói xem
tướng nói cái kho tài sản [trong mạng tôi] rỗng tuếch,
mạng ǵ vậy? Gọi là “số ăn mày”, bần tiện
đến tột bậc, “tiện”
(賤) là không có địa vị, bần (貧) là không có tài sản. Học Phật, được
biết Chương Gia đại sư. Chương Gia
đại sư dạy tôi tu, đời quá khứ chẳng
tu, hiện tại tu vẫn kịp! Khi đó, tôi hai
mươi mấy tuổi, cách tu ra sao? Tu ba thứ bố
thí. Tôi thưa với lăo nhân gia: “Con không có tiền”. Khi
đó, một tháng chỉ kiếm được mấy chục
đồng, gắng gượng sống qua ngày, lấy tiền
đâu để bố thí? Ngài hỏi tôi: “Một cắc có
hay không?” “Một cắc th́ có thể được ạ!”
“Một đồng có được hay chăng?” “Vẫn
miễn cưỡng th́ cũng được”. “Anh hăy bỏ
ra một cắc, một đồng để bố thí, thật
sự làm”. Tôi thật sự nghe lời, từ đây bắt
đầu tích cực tu, thật sự có hiệu quả;
về sau, thâu nhập mỗi năm một tốt hơn, tốt
hơn th́ sao? Đều đem bố thí để thay đổi
vận mạng trong một đời. [Theo tướng số],
tôi chỉ thọ bốn mươi lăm tuổi, đến
năm nay tôi tám mươi tư tuổi, sống lâu [hơn
số mạng] bốn mươi năm, tôi cũng chẳng
ưa thích tí nào. Sống lâu để làm ǵ? Để thay chúng
sanh làm việc nhiều hơn. Chẳng v́ chính ḿnh, sống
rất tự tại, sống rất hạnh phúc; nếu v́
chính ḿnh th́ đă sớm hết đời rồi. Tôi có hai
vị đồng học, cùng tuổi, vận mạng giống
nhau, cùng tuổi, cũng đều xuất gia, [nhưng họ]
chẳng phát tâm độ chúng sanh. Tôi được thầy
dạy phát cái tâm ấy. Chương Gia đại sư dạy,
thầy Lư thành tựu. Năm bốn mươi lăm tuổi,
tôi nhớ kỹ vào khoảng tháng Hai hay tháng Ba, pháp sư Pháp
Dung ra đi; tháng Năm, thầy Minh Diễn mất, tháng Bảy
tôi ngă bệnh, tôi biết vận hạn đă tới rồi.
Tôi cũng chẳng cầu trường thọ, niệm Phật
cầu sanh Tịnh Độ, niệm một tháng, hết
bệnh; sau đấy chẳng c̣n đổ bệnh nữa.
Thật đấy, chẳng giả, “trong cửa Phật, có cầu ắt ứng”, cầu
đúng lư, đúng pháp, không có ai chẳng có cảm ứng như
thế. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học
tập tới chỗ này.
Tập 24
Chư vị pháp
sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi
xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh
Giải, trang thứ hai mươi bốn, ḍng thứ tư,
chúng ta xem từ câu đầu tiên.
“Thuận Bồ Đề môn giả, Bồ Tát viễn
ly như thị tam chủng Bồ Đề môn
tương vi pháp, tức đắc tam chủng tùy thuận
Bồ Đề môn pháp” (Thuận
Bồ Đề môn: Bồ Tát xa ĺa ba pháp trái nghịch Bồ
Đề như thế, liền đắc ba pháp tùy thuận
Bồ Đề môn). Phía trước câu này sót một chữ,
tức chữ “nhị”, v́
trong đoạn thứ nhất thuộc phần trước
đă ghi: “Tiên tu ly tam chủng
dữ Bồ Đề môn tương vi pháp” (trước
hết, cần phải ĺa ba pháp trái nghịch Bồ Đề
môn) đă nói xong. Ở chỗ này sẽ giảng về “thuận Bồ Đề môn”;
thuận Bồ Đề môn cũng có ba điều, tiếp
đó, sách viết: “Hà đẳng
vi tam: Nhất giả, vô nhiễm
thanh tịnh tâm, bất vị tự thân cầu an lạc cố.
Bồ Đề thị vô nhiễm thanh tịnh xứ,
nhược vị tự thân cầu lạc, tức vi Bồ
Đề môn, thị cố vô nhiễm thanh tịnh tâm thị
thuận Bồ Đề môn” (Những ǵ là ba? Một là
tâm vô nhiễm thanh tịnh, chẳng cầu an lạc cho chính
ḿnh. Bồ Đề là chỗ vô nhiễm thanh tịnh. Nếu
cầu vui sướng cho bản thân chính là trái nghịch Bồ
Đề môn. V́ thế, tâm vô nhiễm thanh tịnh là Bồ
Đề môn). Đề mục của đoạn lớn
này là Nhất Kinh Tông Thú, nếu nói theo cách bây giờ, sẽ
là y theo nguyên tắc chỉ đạo tu học tối cao của
bộ kinh này. Nguyên tắc chỉ đạo này đă được
nêu chung trong phần trước: “Phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”,
đấy là nguyên tắc chỉ đạo tu học tối
cao trong Tịnh Tông. Ở đây, v́ chúng ta nói chi tiết: Đắc
thanh tịnh tâm như thế nào? Đặc biệt là trong
tựa đề của bộ kinh này, nửa sau nói “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”,
nêu ra cương lĩnh tu hành. Có Tông, đó là tông chỉ, tức
tông chỉ tu học của bộ kinh này. “Thú” là quả, ta chiếu theo phương pháp này để
tu, trong tương lai sẽ đắc quả báo ra sao. Cái
quả nằm ngay trong nửa trước của tựa đề
kinh. Quư vị đạt được điều ǵ? Đạt
được “Đại Thừa
Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm”, quư vị thấy quả
báo này thù thắng lắm! Trong kinh Hoa Nghiêm, Thích Ca Mâu Ni Phật
đă nói: “Hết thảy chúng
sanh đều có trí huệ và đức tướng Như
Lai”, ai nấy đều có, vốn sẵn có. Do vậy,
giáo pháp Đại Thừa thường nói: “Hết thảy chúng sanh vốn là Phật” .
Nhất
định phải hiểu rơ ư nghĩa này của đức
Phật, chẳng phải là mê tín. Phật là tiếng Ấn
Độ, người Ấn Độ gọi là Phật,
người Trung Quốc gọi là thánh nhân. Do vậy, Phật
và thánh nhân có cùng một ư nghĩa. Chữ “thánh nhân” của Trung Quốc nên giảng như thế
nào? Thánh (聖) là thông đạt, hiểu rơ chân tướng
của vũ trụ nhân sinh, đó là “thánh”. Chữ Phật trong tiếng Ấn Độ
nghĩa là Giác, cũng là hoàn toàn giác ngộ, hiểu rơ chân
tướng của nhân sinh và vũ trụ; đúng là có cùng
một ư nghĩa. Phật giáo truyền tới Trung Quốc,
chữ này được dịch âm. Nói thật ra là có thể
dùng chữ Thánh của tiếng Hán để dịch. Có những
[đoạn kinh văn] trong Phật pháp, [gọi Phật] là
Đại Thánh, điều này rất thích hợp với
khẩu vị của người Hoa, Đại Thánh Thích
Ca Mâu Ni. V́ thế, quư vị hiểu rơ văn tự, sẽ
chẳng nói Phật giáo là mê tín. Quư vị chẳng hiểu ư
nghĩa, tưởng Phật là thần, Bồ Tát là thần,
La Hán là thần, hoàn toàn sai lầm! Trong Phật giáo, Phật,
Bồ Tát, A La Hán là những danh xưng học vị: Phật
là tối cao, người Trung Quốc gọi là Thánh. Cấp
thấp hơn thánh nhân là hiền nhân, cấp thấp nhất
là quân tử. Trong Phật pháp cũng có ba đẳng cấp,
tối cao là Phật Đà, thứ nh́ là Bồ Tát, kém hơn
nữa là A La Hán. Ba danh xưng học vị, chớ nên không
hiểu rơ!
Sự
giáo học của Phật nhằm mục tiêu cuối cùng,
tột bậc là dạy chúng ta trở về tự tánh, v́
sao? Tự tánh viên măn. Tổ tiên dạy chúng ta: Bổn tánh vốn
lành, Phật gọi là tự tánh, c̣n gọi là bổn tánh.
Hai câu đầu tiên trong Tam Tự Kinh là: “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện” (tánh con người
thoạt đầu vốn lành), quư vị làm thế nào để
trở về bổn thiện th́ sự giáo học này sẽ
đạt được! V́ sao chẳng thấy bổn
thiện? V́ quư vị có tập tánh bất thiện. Tam Tự
Kinh nói rất rơ ràng: “Tánh tương
cận, tập tương viễn” (Tánh th́ gần giống
nhau, do được giáo dục mà trở thành khác xa). Tánh của
mọi người đều như nhau, đều là chí
thiện. Thiện ấy chẳng phải là thiện trong
thiện ác, phải hiểu rơ: Thiện ấy là danh từ
nhằm ca ngợi nó quá hoàn mỹ, chẳng có một chút
khiếm khuyết nào. Trong tự tánh có vô lượng trí huệ,
vô lượng đức năng, vô lượng tướng
hảo, nay chúng ta nói tới tướng hảo là nói tới
phước báo, vô lượng phước báo mà chính quư vị
vốn có, v́ sao mất đi? Nay ở trong thế gian này, chúng
ta thấy trí huệ bất b́nh đẳng, đức hạnh
cũng chẳng b́nh đẳng, phước báo cũng
không b́nh đẳng, do duyên cớ nào? Do nghiệp chướng
của chính quư vị có dầy hay mỏng khác nhau. Nghiệp
chướng dầy, thông minh, trí huệ kém sút; nghiệp
chướng mỏng, thông minh trí huệ hơn một chút.
Do vậy, trí huệ và đức tướng đều như
nhau, nhưng v́ phiền năo có dày, mỏng, cạn, sâu khác
nhau, cho nên lộ ra chẳng giống nhau.
Giáo học
của Phật Đà chẳng có ǵ khác, nhằm dạy chúng
ta xa ĺa tập khí phiền năo, buông xuống, thảy đều
buông xuống, quư vị sẽ thành Phật, sẽ hoàn toàn khôi
phục. Phiền năo tập khí vô lượng vô biên, Thích Ca
Mâu Ni Phật quy nạp thành ba loại lớn, nhằm mục
đích dễ nói hơn, dễ giảng hơn trong khi dạy
học. Mỗi loại đều là vô lượng vô biên, chẳng
thể tính đếm được:
- Loại thứ nhất
gọi là Vô Minh phiền năo, kinh Hoa Nghiêm gọi loại này
là vọng tưởng, c̣n trong giáo pháp Đại Thừa gọi
nó là Vô Minh phiền năo; đây là một loại.
- Loại thứ hai là Trần
Sa phiền năo. Trần Sa là tỷ dụ các phiền năo ấy
nhiều như bụi, cát; trong kinh Hoa Nghiêm, chúng được
gọi là phân biệt. V́ thế, phân biệt là phiền năo,
tức Trần Sa phiền năo.
- Loại lớn thứ
ba gọi là Kiến Tư phiền năo. Kiến là kiến giải
của quư vị sai lầm, Tư là tư tưởng, quư
vị nghĩ trật rồi, nghĩ sai chân tướng sự
thật rồi, thấy sai rồi. Điều này gọi là
Kiến Tư phiền năo. Kinh Hoa Nghiêm gọi loại này là
chấp trước, chấp trước là Kiến Tư
phiền năo.
Quư vị có thể buông
chấp trước xuống, sẽ chứng quả A La Hán,
được gọi là bậc A La Hán, đă đạt được
học vị thứ nhất, chẳng chấp trước
hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian. Nếu
tiến hơn một bước nữa, không chỉ chẳng
chấp trước, mà phân biệt cũng không có, quư vị
là Bồ Tát, đạt được học vị thứ
hai. Học vị tối cao là lục căn đối với
cảnh giới lục trần chẳng khởi tâm, không động
niệm, đấy là chẳng có Vô Minh phiền năo. Vô Minh phiền
năo là khởi tâm động niệm; chẳng khởi tâm,
không động niệm, quư vị sẽ thành Phật, đạt
được học vị tối cao. Đó là ba danh xưng
học vị.
Do vậy,
các đồng học nhất định phải biết,
hiện nay Phật giáo biến thành tôn giáo,
chúng ta đều là tội nhân đối với Thích Ca Mâu
Ni Phật, cớ sao hai ngàn năm trăm năm sau khi lăo
nhân gia [nhập diệt], giáo học đă biến thành tôn
giáo? Chúng ta phải biết: Chúng ta chẳng trọn hết
trách nhiệm. Thuở tại thế, Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng
dính líu ǵ đến tôn giáo, mười chín tuổi cầu
học, tham học, ba mươi tuổi khai ngộ. Khổng
lăo phu tử cũng thế, mười lăm tuổi dốc
chí học hành, ba mươi tuổi hoàn tất. Thánh nhân Đông
Phương và Tây Phương có rất nhiều chỗ tương
đồng; nhưng sau khi khai ngộ, đức Thế
Tôn liền giáo học, suốt đời làm công tác này. Thân
hành, ngôn giáo, Ngài thật sự làm được, làm
được toàn bộ những điều Ngài đă giảng.
Nếu Ngài làm không được, sẽ chẳng nói; hễ
nói ra, đều thật sự làm được, nêu gương
tốt cho mọi người chúng ta. Dạy bao lâu? Dạy
suốt cả đời, bảy mươi chín tuổi viên
tịch. V́ thế, trong kinh giáo, thường thấy ghi: “Giảng kinh hơn ba trăm hội,
thuyết pháp bốn mươi chín năm”. Từ ba
mươi tuổi bắt đầu, đến bảy
mươi chín tuổi [viên tịch], sống một ngày bèn
dạy một ngày, vui thích dạy dỗ chẳng mệt mỏi.
Nói theo cách bây giờ, Ngài mang thân phận ǵ? [Giáo dục]
đa nguyên văn hóa! Có thể nói là đa nguyên, v́ Ngài chẳng
phân biệt quốc gia, tôn giáo, tín ngưỡng, cũng chẳng
phân chia dân tộc, là một nhà giáo dục xă hội đa nguyên
văn hóa, thật sự mang thân phận ấy. Chính Ngài th́
sao? Chính Phật là một người thực hiện nghĩa
vụ công tác giáo dục xă hội đa nguyên, chẳng lấy
học phí, cuộc sống rất đơn giản, trưa
ăn một bữa, ngủ dưới cội cây, ăn cơm
từ chỗ nào? Khất thực, đúng là “nhất bát thiên gia phạn” (một
bát cơm ngàn nhà), lời này là sự thật, chẳng giả.
Quư vị mở kinh điển ra xem, sẽ thấy: Các vị
thường tùy đệ tử của Phật, tức là
những người thường theo Ngài chẳng rời,
đức Phật tới nơi đâu, họ theo tới đó,
một ngàn hai trăm năm mươi lăm người,
mỗi người đều ra ngoài khất thực, tức
là một ngàn hai trăm mấy cái bát. Khất thực chẳng
phải là ta xin được bèn ăn, chẳng phải vậy!
Trở về đổ dồn cơm vào với nhau, sau đấy,
chia ra ăn. Do vậy, cơm trong bát của mỗi người
đều là do xin từ ngàn nhà về. Chúng ta liễu giải
chân tướng sự thật này, biến Phật giáo thành
tôn giáo là do lũ học tṛ đời sau chúng ta đại
bất hiếu, cớ sao biến Phật giáo thành ra nông nỗi
này? Là học tṛ thật sự của đức Phật,
phải khôi phục diện mạo vốn có, diện mục
vốn có của Phật giáo là giáo học.
Phật
giáo truyền tới Trung Quốc là do hai vị đại đức
Ma Đằng và Trúc Pháp Lan đến Trung Quốc. Thuở
ấy, Hán Minh Đế bái họ làm thầy; do vậy, họ
biến thành quốc sư. Họ vốn đều là khất
thực, đều ngủ dưới cội cây, nay làm thầy hoàng thượng; tại Trung Quốc,
nếu thầy của hoàng thượng ra ngoài khất thực,
đến ngủ dưới cội cây, người ta sẽ
chửi bới hoàng đế chết mất! Ngươi
làm hoàng đế kiểu ǵ? Làm sao có thể khiến cho thầy
nhà ngươi sống như vậy được! Do vậy,
sau khi đến Trung Quốc, họ đành bỏ
truyền thống xưa ấy, quư vị thấy: Hằng
thuận chúng sanh, tùy thuận tập quán của dân Trung Quốc.
Hoàng thượng cũng ban cho họ cung điện, dựng
chùa (tự), “tự” là ǵ? Quư
vị phải biết: Tự (寺) là cơ cấu làm việc của chính
phủ, là một cấp hành chánh trực thuộc hoàng
đế cai quản, đó là Tự. Quư vị tới
thăm Cố Cung. Trong Cố Cung có rất nhiều tấm
biển, như Hồng Lô Tự, Thái Thường Tự,
đấy đều là các đơn vị cấp dưới
của hoàng đế, do hoàng đế trực tiếp quản
trị, gọi là Cửu Tự. Trưởng quan của chín
tự gọi là Khanh, Tam Công Cửu Khanh; Tam Công[6] là cố vấn của hoàng thượng,
địa vị rất cao, Cửu Khanh là thủ trưởng
đơn vị ở dưới họ một cấp. Đơn
vị dưới Tể Tướng một cấp là Bộ.
Thủ trưởng của Bộ gọi là Thượng Thư.
Thượng Thư là Bộ Trưởng. Thị Lang là Thứ
Trưởng. Do vậy, cơ cấu dưới hoàng thượng
một cấp sẽ cao hơn Tể Tướng một bậc.
Cấp dưới của Tể Tướng gọi là Thượng
Thư, c̣n họ (những người đứng đầu
cửu tự) gọi là Khanh, tức Tam Công Cửu Khanh. Cơ
cấu làm việc của Phật giáo cũng gọi là Tự,
do hoàng thượng trực tiếp nắm giữ. Do vậy,
Trung Quốc vào thời ấy trở thành có hai bộ giáo dục:
Bộ giáo dục dưới quyền Tể Tướng là
bộ Lễ, sắp theo thứ tự thuận, bộ Lễ
đứng đầu, đây là [quy chế] do tổ tiên
Trung Quốc truyền lại. Bất luận là gia đ́nh
hay quốc gia, đều xếp giáo dục lên đầu.
“Kiến quốc, quân dân, giáo học
vi tiên” (xây dựng đất nước, cai trị nhân
dân, giáo dục làm đầu). Quư vị thành lập một
chính quyền, “quân” là người
lănh đạo, lănh đạo nhân dân, coi điều ǵ là bậc
nhất? Giáo dục bậc nhất. V́ thế, bộ Lễ
là bộ thứ nhất. Khi Tể Tướng có việc chẳng
thể coi sóc chính sự, Thượng Thư bộ Lễ
sẽ thay mặt, quư vị thấy địa vị của
ông ta rất cao! Nh́n vào chế độ thời cổ của
Trung Quốc, bất luận là gia đ́nh hay quốc gia,
đều xếp giáo dục vào bậc nhất; nói cách khác,
hết thảy đều nhằm phục vụ giáo dục.
Do vậy, quốc gia mấy ngàn năm ổn định, đạo
lư ở chỗ này!
Dạy
những ǵ? Giáo dục vun bồi căn bản, giáo dục
cơ sở trong ba năm đầu. Trẻ nhỏ từ
lúc sanh ra cho đến ba tuổi là giáo dục vun bồi căn
bản, do mẹ dạy. Vai tṛ người thầy đầu
tiên của đứa trẻ do mẹ nó đảm nhận,
dạy ǵ? Nay tôi nói với mọi người: Đấy
chính là Đệ Tử Quy. Đệ Tử Quy chẳng phải
là dạy trẻ nhỏ đọc, mà là cha mẹ [làm gương]
cho con thấy. Trẻ nhỏ vừa sanh ra, mở mắt
ra nó có thể thấy, tai nó có thể nghe, nó đă đang học
tập. Quư vị thấy từ lúc sanh
ra cho đến ba tuổi, nó học một ngàn ngày. Trong một
ngàn ngày ấy, trong sự giáo dục trước đây,
điều được hết sức coi trọng là hết
thảy những thứ phản diện chẳng để
cho trẻ nhỏ thấy, nghe, hay tiếp xúc, hết
thảy những ǵ nó được tiếp xúc đều
là chính diện. Cha mẹ trước mặt con luôn lịch
sự, từ tốn. Do vậy, cổ ngạn ngữ Trung
Quốc có câu: “Tam tuế khán
bát thập”, [ư nói] ba tuổi vun bồi căn bản, tám
mươi tuổi sẽ chẳng biến đổi. Sự
giáo dục này nhằm vun bồi cội sâu rễ vững.
Sách Đại Học có câu: “Cách
vật, trí tri, thành ư, chánh tâm”, bồi dưỡng lúc nào?
Bồi dưỡng trong ba năm một ngàn ngày ấy, vun
bồi cội rễ thật tốt! Sau này, nó đi học,
thầy giáo là sự tiếp tục của gia giáo, kéo dài
gia giáo. Thầy giáo phải nêu gương cho học tṛ thấy,
thầy thay thế bậc trưởng thượng trong
gia đ́nh. Bậc trưởng thượng làm như thế,
thầy cũng làm như thế, ḷng tin của trẻ đă
được đặt vững rồi. V́ thế, trước
kia, giáo dục của Trung Quốc thành công như thế đó!
Kiểu giáo dục ấy
đến khi nào chẳng c̣n nữa? Sau khi Dân Quốc thành
lập, quan niệm giáo dục ấy c̣n được kéo
dài hai mươi năm, sau năm Dân Quốc thứ hai mươi
(1931) bèn chẳng c̣n nữa! Nó bị triệt để
tiêu diệt sau thời chiến tranh Trung Nhật, sau tám
năm kháng chiến, hoàn toàn chẳng c̣n nữa. Do vậy,
tôi thường nói: Chúng ta và Nhật Bản đánh nhau tám
năm, người bị tử thương, tổn thất
sanh mạng, tài sản là chuyện nhỏ, bé nhỏ không
đáng kể; tổn thất lớn nhất gia đ́nh truyền
thống và nền gia giáo truyền thống bị mất đi,
tổn thất quá lớn. Đối với sự tổn
thất này, nếu chúng ta không có tâm cảnh giác cao độ
để khôi phục ngay lập tức, dân tộc sẽ
bị diệt vong. Trong bốn nền văn minh cổ[7] trên thế giới, ba nền văn minh
khác không có điều này (gia đ́nh truyền thống và nền
gia giáo truyền thống), chỉ riêng Trung Quốc có. Nếu
Trung Quốc vứt bỏ truyền thống này, cổ văn
minh của Trung Quốc sẽ tiêu mất! Tôi tin rằng chưa
đầy ba mươi năm, Trung Quốc sẽ chẳng
c̣n ǵ hết! Nền giáo dục ấy bị mất đi
là chuyện đáng buồn nhất của nhân loại trên
toàn thế giới, không riêng ǵ Trung Quốc bị tổn
thất mà cả thế giới đều bị tổn
thất. Thập niên 70, ông Thang Ân Tỷ (Arnold J. Toynbee) thường
nói, ông này là một nhà sử học người Anh, ông ta nói:
“Giải quyết vấn đề
xă hội trong thế kỷ hai mươi mốt, chỉ
có học thuyết Khổng Mạnh của Trung Quốc và
Đại Thừa Phật pháp”. [Điều này do] người
khác nói, chẳng phải do tôi nói, nói thật sự có lư. Ngày
nay, chúng ta khôi phục nền giáo dục của đức
Phật bằng cách nào? Phật giáo là giáo dục, chẳng
phải là tôn giáo. Làm thế nào để khôi phục truyền
thống giáo dục Nho gia và Đạo gia Trung Quốc? Truyền
thống Trung Quốc chắc chắn chẳng tách ĺa Nho, Thích,
Đạo. Nho, Thích, Đạo trên h́nh thức th́ có, trên thực
tế đă chẳng c̣n nh́n thấy nữa! Người học
Nho cũng học Đạo và Phật, người học
Phật cũng học Nho và học Đạo, môn nào cũng
đều thông, thứ ǵ cũng đều hiểu. Đây
là một nhận thức căn bản đối với văn
hóa truyền thống mà chúng ta phải hiểu rơ, phải minh
bạch.
Hiện thời,
muốn khôi phục, chẳng cần phải dựng chùa miếu,
đó là [cách làm] trong thời đại đế
vương trước kia, không cần tạo dựng h́nh
thức ấy. Hiện thời, những chùa miếu ấy
là cổ tích, là nơi để văn cảnh du lịch, có đặc
tính hấp dẫn lịch sử, chuyện ấy tốt lắm,
nhưng chẳng thể dạy học. Cần xây dựng
trong hiện thời là trường học. Trước
kia, tôi thường gặp cụ Triệu Phác Sơ[8],
hầu như hàng năm tôi đều về thăm cụ.
Tôi đề nghị với cụ, hiện tại giao thông
thuận tiện, truyền thông phát triển, Phật giáo Trung
Quốc là mười tông phái, mười tông phái đều
khôi phục, mỗi tông phái thành lập một đạo
tràng, giống như viện đại học tại ngoại
quốc, t́m một cuộc đất thuận lợi để
xây dựng, thành lập viện đại học, chia thành
hai bộ phận: Một bộ phận là Giải môn, bộ
phân kia là Hành môn. Về danh xưng, lăo cư sĩ Hạ Liên
Cư đă từng đề nghị, đề nghị ấy
hết sức hay! Bộ phận tu hành gọi là Học Hội,
chúng ta là Tịnh Độ Tông th́ Tịnh Tông Học Hội
là bộ phận tu hành, c̣n bộ phận nghiên cứu lư luận
và kinh điển được gọi là Tịnh Tông Học
Viện. Đối với Thiên Thai Tông th́ là Thiên Thai Học
Hội và Thiên Thai Học Viện. Đấy là danh xưng được
hiện đại hóa, mọi người vừa nh́n vào liền
liễu giải, đó là đúng. Hoa Nghiêm Học Viện, Hoa
Nghiêm Học Hội, danh xưng ấy khiến cho người
ta chẳng mê hoặc tí nào. Đấy là một đề
nghị hết sức hay! Nếu chúng ta thật sự hiểu,
thật sự làm, có như vậy th́ mới có thể phục
hưng văn hóa truyền thống Trung Quốc, tối thiểu
Trung Quốc sẽ có một ngàn năm hưng thịnh xuất
hiện, ngàn năm thịnh vượng và ổn định
lâu dài. Trung Quốc hưng thịnh, nhất định sẽ
hướng dẫn thế giới tiến đến ḥa b́nh,
yên định, quư vị nói xem chuyện này có vĩ đại
lắm hay không? Rất có ư nghĩa!
Trong thời
kỳ Mạt Pháp, trong giáo pháp Đại Thừa, kinh Vô
Lượng Thọ thù thắng khôn sánh. Chúng tôi vừa nói đến
đề kinh, quư vị thấy cái tâm thanh tịnh và quả
báo đạt được do tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh
là nhân, quả là trang nghiêm, trang nghiêm là đẹp đẽ,
tốt lành. Tâm b́nh đẳng là định, là tam-muội,
quả báo là vô lượng thọ, đó là đức. Sau đó
là giác, giác chứ không mê, quả báo là Đại Thừa.
Đại Thừa là trí huệ, kinh Hoa Nghiêm nói: Tự tánh
vốn trọn đủ đức tướng Bát Nhă.
Đức là vô lượng thọ, tướng là trang
nghiêm, trí huệ Bát Nhă là Đại Thừa, [những nhân và
quả này] đều được đặt trong tựa
đề kinh, tu nhân, chứng quả, đấy là Tông Thú
của kinh này. Nay điều đầu tiên được
dạy trong kinh này là: Vô nhiễm là tâm thanh tịnh. Nhiễm
là ô nhiễm; nay tâm chúng ta chẳng thanh tịnh, v́ sao? Có chấp
trước, có phân biệt, có phải như vậy hay không?
Nói chẳng tận. Nói đơn giản th́ chấp trước
cái thân là ta, đó là ô nhiễm. Quư vị c̣n có Thân Kiến, đó
là cái ải đầu tiên, chấp trước thân là ta. Đức
Phật nói thân này chẳng phải là ta. Thân là ǵ? Thân là “ngă
sở”, tức là cái mà ta có. Giống như y phục, y phục
là cái ta có, chẳng phải là ta, mọi người hiểu
điều này dễ dàng. Y phục dơ bẩn th́ thay bộ
khác. Cùng một đạo lư, thân chẳng phải là ta, thân
là cái mà ta có, sử dụng vài chục năm, giống như
một cỗ máy, chẳng sử dụng ngon lành nữa th́
đổi lấy cái mới, đổi lấy một thân
thể mới. Đó là đúng!
Người
thật sự có công phu, các khoa học gia hiện thời bảo:
Tế bào của con người, tức tế bào trong thân
thể, cứ bảy năm là một chu kỳ, mỗi
ngày chúng đều thay đổi. Sau bảy năm, những
tế bào cũ đều chẳng c̣n, đổi mới
toàn bộ. Nếu chúng ta hỏi, v́ sao nó càng thay đổi
càng tệ? Lăo hóa, chứ không phải là tệ đi. Càng
thay đổi càng chẳng được lanh lợi, sáng
suốt, v́ sao chẳng đổi thành một cỗ máy mới?
Nếu đổi thành cỗ máy mới, quư vị sẽ
trường sanh bất lăo, v́ sao lại càng thay đổi
càng kém cỏi? Quư vị suy nghĩ đạo lư này sẽ
hiểu: Thuở nhỏ ngây thơ, từ mười tuổi
đến hai mươi tuổi, từ bảy tuổi tới
mười bốn tuổi, hai mươi mốt tuổi,
mỗi lúc thay đổi, gần như đều là đổi
mới, không có ǵ sai khác, thật là tốt. Sau hai
mươi tuổi, cứ mỗi bảy năm sau chẳng
bằng bảy năm trước đó, v́ sao? V́ tự tư
tự lợi dấy lên, v́ vọng niệm dấy lên, chạy
theo dục vọng, tham, sân, si, mạn, thôi rồi, càng thay đổi
càng kém cỏi hơn, càng già hơn, chấp trước càng
nghiêm trọng, càng kém hơn, đạo lư là như thế đó.
Tế bào trên thân thể thay đổi, nghe theo lệnh của
ai? Nghe theo ư niệm của chúng ta. Do vậy, nếu quư vị
thật sự đắc thanh tịnh tâm, sự thay đổi
toàn là tốt đẹp. Cũng có nghĩa là quư vị chẳng
có tướng già yếu. Nếu quư vị đắc tâm b́nh
đẳng, khi thay đổi sẽ gần giống như
đổi mới. Chúng ta nói: “Bồ
Tát niên niên thập bát” (Bồ Tát mỗi năm đều
là mười tám). Bồ Tát thay đổi thân tướng,
do có tâm b́nh đẳng, các Ngài không chỉ thanh tịnh, mà c̣n
đạt đến b́nh đẳng, thanh tịnh là tâm A
La Hán, b́nh đẳng là tâm Bồ Tát. Giác là đại triệt
đại ngộ, minh tâm kiến tánh, đó là tâm Phật.
V́ thế, “thanh tịnh, b́nh
đẳng, giác” là ba giai đoạn, họ hiểu được.
Phàm nhân chúng ta lo được, lo mất, tham lam không chán,
nên càng thay đổi càng tệ, năm sáu chục tuổi đă
suy, hoàn toàn không biết đến chân tướng sự
thật nên mới sanh ra hậu quả như thế.
Quư vị
thấy Bồ Tát dạy chúng ta, chúng ta tu Tịnh Độ,
mục tiêu cuối cùng là cầu sanh về Tây Phương
Cực Lạc thế giới. Cầu sanh về thế giới
Cực Lạc, điều kiện khẩn yếu thứ
nhất, chư vị phải ghi nhớ, trong kinh thường
nói: “Tâm tịnh, ắt cơi Phật
tịnh”. Tâm địa quư vị chẳng thanh tịnh, suốt
ngày từ sáng đến tối niệm A Di Đà Phật,
mỗi ngày niệm mấy chục vạn tiếng, chẳng
nhất định có thể văng sanh. V́ sao? Tâm không thanh tịnh.
Tới thế giới Cực Lạc để làm ǵ?
Hưởng thụ! Thế giới Cực Lạc tốt đẹp
quá, ta đến đó hưởng phước, do ư niệm
này sẽ chẳng thể văng sanh, do quan niệm ấy hoàn
toàn trái nghịch thế giới Cực Lạc! Cần biết:
Thế giới Cực Lạc là trường học, quư vị
cũng chẳng thể coi trường học là nhà ḿnh. Bước
vào trường, chẳng nghĩ sẽ rời khỏi, chẳng
thể được! Sau khi tốt nghiệp, nhất
định phải rời khỏi, nơi ấy là chỗ
bồi dưỡng, huấn luyện quư vị thành Phật,
quư vị đến học [chứ không phải đến
để hưởng phước]! Sau khi thành Phật, phải
rời khỏi. Rời khỏi để đến đâu?
Đến mười phương thế giới giáo hóa
chúng sanh, chẳng thể quyến luyến măi nơi ấy.
Quư vị có một động cơ như vậy, không chỉ
A Di Đà Phật chẳng tiếp dẫn quư vị, mà cư
dân trong thế giới Cực Lạc cũng phản đối
quư vị, làm sao quư vị đến được? Do vậy,
điều kiện đầu tiên là tâm vô nhiễm, thanh tịnh.
Đă nhiều năm qua,
tôi thường khuyên mọi người, chúng ta học Phật
điều đầu tiên là học thanh tịnh. Tôi nêu ra mười
sáu chữ, buông tự tư tự lợi xuống, buông tiếng
tăm, lợi dưỡng xuống, buông ngũ dục lục
trần xuống, buông tham, sân, si, mạn xuống! Thật
sự làm được mười sáu chữ này, có nhập
môn hay không? Thưa quư vị, chưa nhập môn! Tôi nói rất
minh bạch, chớ nên hiểu lầm lời tôi nói, tôi đă
dẫn quư vị đến cửa ngơ, đưa tới cửa
ngơ. Nhập môn th́ sao? Phải thỏa điều kiện nêu
trong kinh Phật, [tức là] phải buông Thân Kiến xuống.
Cái thân này thật sự chẳng phải là ta, đừng
v́ thân này tạo nghiệp nữa. Đó là đúng! Quư vị
mới có thể hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công
đức, quyết định chẳng v́ thân này nữa,
thân bỏ đi. Điều thứ hai là phải buông Biên Kiến
xuống. Nói đơn giản, Biên Kiến là đối lập.
Chẳng c̣n đối lập với người khác, người
khác đối lập với ta, nhưng ta chẳng đối
lập với họ. “Biên” (邊) là nhị biên (二邊), không chỉ chẳng đối lập
với hết thảy mọi người, mà với hết
thảy động thực vật cũng chẳng đối
lập. Đối với núi, sông, đại địa
cũng chẳng đối lập, đối với hiện
tượng tự nhiên cũng không đối lập, ư niệm
đối lập chẳng có. Quư vị phải hiểu: Buông
ư niệm đối lập xuống, đó là cảnh giới
ǵ? Khắp pháp giới hư không giới và chính ḿnh là nhất
thể, nhất thể chẳng đối lập, đối
lập chẳng phải là nhất thể. Trong đối
lập nẩy sanh phiền năo, căn nguyên của tất cả
hết thảy phiền năo do đây sanh ra. Do vậy, phải
buông nó xuống! Lại c̣n phải buông thành kiến xuống,
người Trung Quốc hay nói: “Người nào đó có thành
kiến rất sâu”. Phật pháp chia “thành kiến” thành hai loại
lớn: Một là thành kiến nơi nhân. Hai là thành kiến
nơi quả. Chẳng có thành kiến, con người
đạt đến mức không có thành kiến, sẽ xử
sự, đăi người, tiếp vật thuận buồm
xuôi gió, v́ sao? Chính ḿnh chẳng có ư nghĩ ǵ, người khác
đều tốt, nhưng quư vị có trí huệ, có thể
phán đoán. Người khác đề ra điều ǵ tốt
đẹp, quư vị nhất định phục tùng, nhất
định tùy thuận. Người khác nêu ra thứ ǵ bất
thiện, quư vị có thể uốn nắn, khuyên lơn kẻ
ấy; nếu nhận thấy kẻ ấy chẳng thể
lư giải, chẳng thể tiếp nhận, bèn cười
cho qua. Tận hết sức tránh né hậu quả, tức
hậu quả của cái nhân bất thiện ấy, đó
là đúng, vĩnh viễn vui sướng. Đấy mới
là thật sự nhập môn, nhập pháp môn của Phật.
Nhập
Phật môn: Trong Tiểu Thừa [nhập môn] là đă chứng
quả Tu Đà Hoàn, tức Sơ Quả của Tiểu Thừa.
Trong Đại Thừa, như kinh Hoa Nghiêm đă giảng, [nhập
môn] thuộc địa vị Sơ Tín trong hàng Thập Tín
Bồ Tát của Viên Giáo. Thập Tín là Tiểu Học, quư vị
đă vào học lớp Một Tiểu Học. Tôi nói mười
sáu chữ để dẫn quư vị đến cửa lớp
Một, quư vị sử dụng tiêu chuẩn ấy của
Phật sẽ vào lớp. Hễ vào rồi, tuy rất thấp,
địa vị rất thấp, nhưng quư vị cũng
rất lỗi lạc, được gọi là thánh nhân, tiểu
thánh, một vị thánh nhỏ nhoi. Tuy là thánh nhân nhỏ
nhoi, chưa thoát khỏi lục đạo luân hồi, nhưng
chắc chắn chẳng đọa trong tam ác đạo, quư
vị được bảo đảm, sanh trong cơi trời
hay nhân gian bảy lần, chắc chắn chứng A La Hán,
cũng có nghĩa là: Địa vị của quư vị ngày
được nâng cao hơn, sẽ chẳng thoái chuyển.
Trong ba thứ Bất Thoái, quư vị chứng đắc Vị
Bất Thoái, tiến bộ mỗi ngày. Quư vị là một
vị Bồ Tát nhỏ. Trong kinh Kim Cang, đức Phật
đă nói rất hay: Đức Phật căn dặn hàng đại
Bồ Tát phải thường chăm nom hàng tiểu Bồ
Tát. Tiểu Bồ Tát định lực chẳng đủ,
có khi vẫn phạm tội lỗi, cho nên bậc đại
Bồ Tát thường chiếu cố quư vị. Đầu
tiên là quyết định chẳng cầu an lạc cho chính
ḿnh, nơi nào có tai nạn, quư vị đừng nên tránh né,
mà hăy vội vă tới đó, tận tâm tận lực giúp đỡ
họ.
Hiện
thời, trên địa cầu này có tai nạn, đức Phật
dùng phương pháp ǵ để giúp họ? Giáo học! Phải
biết: Giảng kinh, giáo học là phương thuốc bí
truyền để hóa giải tai nạn. Quư vị phải
dạy họ v́ tánh họ vốn lành, quư vị phải hiểu
đạo lư này, bất thiện là tập tánh. Giảng rơ
ràng, giảng minh bạch, họ sẽ buông bất thiện
xuống, t́m lại bổn thiện, đó là thành công, đă
đạt được mục đích giáo dục. Người
dẫu hư hỏng cách mấy, kẻ Ngũ Nghịch, Thập
Ác vẫn có bổn thiện, chỉ là nhất thời hồ
đồ làm quấy, quư vị tha thứ, khéo dạy dỗ
kẻ ấy, dạy kẻ ấy quay đầu; chớ nên
bỏ mặc! Bỏ mặc kẻ ấy tức là quư vị
giáo dục thất bại.
Ở nước
ngoài, tôi không muốn dạy học trong nhà trường, tôi
rất thích chuyện tṛ với những vị giáo sư lâu
năm, mở những cuộc tọa đàm cùng họ. Tôi
bảo họ, Trung Quốc từ xưa coi trọng giáo dục
nhất. Người Hoa có trí huệ và phương tiện
thiện xảo trong giáo học, dạy học có hiệu
quả, trên thế giới quả thật rất ít ai có thể
sánh với Trung Quốc về điều này! Điều đầu
tiên trong giáo dục Trung Quốc là khẳng định “con người
tánh vốn lành”, dạy học chẳng có ǵ khác, ngoài việc
làm cho người ấy từ tập tánh trở về bổn
tánh. Nếu nói “đứa học tṛ này quá hư hỏng,
chẳng thể dạy được, phải khai trừ
nó”, tức là dạy dỗ thất bại. Quư vị phải
biến học tṛ hư hỏng thành học tṛ ngoan hiền,
quư vị mới giáo dục thành công. Chẳng thể dạy,
khai trừ, tức là tṛ chẳng có khuyết điểm, mà
là chính quư vị có khuyết điểm: Thiếu năng lực,
thiếu đức hạnh, chẳng thể
cảm hóa nó. Đó là quư vị thất bại, chẳng phải
học tṛ, học tṛ chẳng có khuyết điểm! Trong
các cuộc tọa đàm, tôi thường nói với các giáo
sư về chuyện này, họ nghe xong, cũng gật
đầu, cũng cảm thấy tôi nói rất có lư. Những
điều này chẳng phải do tôi nói, mà do cổ thánh
tiên hiền đă nói. Dạy chẳng thành công, hăy trách chính
ḿnh! Cổ nhân Trung Quốc nói: “Hành
hữu bất đắc, phản cầu chư kỷ”
(làm không được, hăy xét lại ḿnh), quư vị mới
có thể giải quyết vấn đề. Quư vị muốn
đem trách nhiệm đổ lên đối phương, trật
rồi, hoàn toàn trật rồi! Trung Quốc từ xưa tới
nay giáo học thành công, không có ǵ khác, chỉ là hai câu nói ấy.
Cha mẹ dạy con cái không nên thân, chẳng phải là con cái
bất hảo, mà do chính ḿnh chẳng trọn hết trách
nhiệm, chẳng dạy kỹ lưỡng. Thầy dạy
học tṛ, dạy chẳng nên người, khi đó, thầy
phản tỉnh: Chẳng phải là lỗi của học
tṛ! Do vậy, tu dưỡng đức hạnh của chính
ḿnh, nâng cao cảnh giới của chính ḿnh, tự nhiên sẽ
có thể cảm hóa thế hệ kế tiếp.
Trung Quốc
mấy ngàn năm ổn định nhờ vào gia đ́nh. V́
thế, chỗ tuyệt diệu của dân tộc Trung Hoa là:
Một là biết giáo dục, hai là gia. Gia là ǵ? Thực hiện
giáo dục triệt để. “Gia”
ở Trung Quốc là “đại
gia đ́nh”. Trước thời Kháng Chiến, chúng tôi sống
ở nông thôn, [sống trong] đại gia đ́nh. Thôn này là
Vương thôn, tức là Vương gia (gia tộc họ
Vương), là người một nhà. Kia là Uyển thôn, Uyển
thôn là một nhà, là thân thích của chúng ta. Anh em mười
mấy người chẳng sống tách riêng. Trong một
nhà, số người có hơn hai trăm người, [tức
là nhà ấy] đă suy. Khi hưng vượng, hơn ba trăm
người. Do vậy, nhà có gia đạo, có gia quy. Đệ
Tử Quy là quy củ chung trong gia quy, ắt phải tuân thủ.
Trừ điều này ra, sở học của mỗi nhà khác
nhau, kinh doanh những sự nghiệp khác nhau. Họ c̣n quy
củ đặc biệt, đều chép trong gia phả. Trị
gia có quy củ, giống như chính phủ, có chế độ,
có pháp luật, chẳng thể trái nghịch. Do vậy, từ
nhỏ, trẻ đă được dạy đại công
vô tư. Nếu có tư tâm, một gia
đ́nh to như thế sẽ bị nó phá hoại, nát cửa,
tan nhà. Từ nhỏ không có tư tâm, quư vị sống trong
thế gian này v́ điều ǵ? V́ gia đ́nh, vinh tông diệu
tổ, vẻ vang ḍng họ, cả đời người
ấy có mục tiêu. Quư vị thấy hiện thời rất
nhiều học tṛ nhỏ tự sát, v́ sao? Nó chẳng biết
sống v́ lẽ ǵ! Không có phương hướng, không có
mục tiêu, cuộc sống tinh thần khổ lắm!
Trước đây, bất luận theo đuổi nghề
nghiệp ǵ, bất luận tới nơi nào, gia đ́nh quư
vị là hậu thuẫn, gia đ́nh là người ủng
hộ quư vị trung thực nhất. Khi quư vị gặp
khó khăn, cả nhà sẽ chiếu cố quư vị. Do vậy,
thuở c̣n thơ, gia học là tư thục, tư thục
là trường học dạy con em trong gia đ́nh. Chỉ
cần chịu học hành, nhất định sẽ có người
thành tựu quư vị, gia đ́nh giúp đỡ quư vị. Lúc
già, gia đ́nh là nơi dưỡng lăo, cáo lăo hoàn
hương, hưởng niềm vui thiên luân. Quư vị thấy
con cháu của chính ḿnh, những đứa
cháu chắt, kể ra mấy chục đứa quây quần
quanh quư vị, vui sướng lắm! Hiện thời, gia
đ́nh chẳng c̣n nữa, thật sự đáng
thương, thật đáng thương, đặc biệt
là tuổi già, cô đơn. Đối với sự nghiệp
dưỡng lăo trong xă hội này, tôi đă thấy rất
nhiều, đến mỗi nơi, chuyện tôi rất
quan tâm là coi xem sự nghiệp phước lợi dành cho người
già, coi t́nh h́nh phạm tội của thanh thiếu niên nơi
ấy. Đấy là vấn đề lo nghĩ, đau đầu
nhất của chính phủ mỗi quốc gia trên thế giới,
nhưng về căn bản, tại Trung Quốc, trong thời
cổ đại, vấn đề ấy chẳng tồn
tại! Quư vị kiểm trong hai mươi lăm bộ sử
của Trung Quốc, có triều đại nào nói tới vấn
đề dưỡng già, nuôi trẻ? Chẳng nhắc tới,
gia tộc thay [chính quyền lo liệu], thực hiện tốt
đẹp, đều dạy trẻ tốt đẹp, chăm
lo người già chu đáo. V́ thế, ai nấy là người
tốt, mọi chuyện đều là chuyện tốt.
Trong các
nghề nghiệp của Trung Quốc cổ đại, người
ta ưa thích nghề nghiệp ǵ nhất? Thưa quư vị,
làm quan, v́ sao? Đăi ngộ rất tốt, lại có địa
vị xă hội, lại không có chuyện ǵ làm, không có những
hồ sơ phải giải quyết, không có kẻ phạm
tội, không có chuyện phạm tội. Chúng ta thấy những
tác phẩm văn học, văn chương, thi từ, ca
phú thuộc phần Tập trong Tứ Khố Toàn Thư do
ai soạn? Đều do những kẻ làm quan, chẳng có
chuyện ǵ làm, hằng ngày ở nhà đọc sách, học
khá lại có chức vụ, du sơn, ngoạn thủy.
Chúng ta thấy trong những tác phẩm văn học, thấy
rất nhiều trường hợp [các quan chức] bái phỏng
các đạo trưởng, thăm viếng ḥa thượng,
họ có thời gian, chẳng giống như hiện thời!
Hiện thời, trong ba trăm sáu mươi nghề, làm
quan vất vả nhất! Thời cổ, ngay cả hoàng đế
cũng thong dong, khoanh tay cai trị, chẳng làm ǵ mà thiên hạ
hưởng thái b́nh, do đâu mà được như vậy?
Thực hiện giáo dục tốt đẹp, sự bồi
dưỡng trong gia đ́nh tốt đẹp, nên gia tề,
quốc trị, thiên hạ b́nh. Chỉ cần gia đ́nh đă
ổn định, gia đ́nh tốt đẹp, xă hội
sẽ chẳng có vấn đề ǵ. Nếu không, sẽ có
chuyện phạm tội nẩy sanh, hoàn toàn cậy vào giáo
dục! Quư vị thấy tổ tiên trí huệ lắm, trong
mấy ngàn năm xếp giáo dục vào vị trí thứ nhất,
tất cả những tổ chức hành chánh không ǵ chẳng
nhằm giáo dục. Giáo dục là then chốt, quốc thái
dân an, có thể thu được hiệu quả tốt đẹp
ngần ấy. Giáo dục Phật giáo chú trọng nhất
là chuyện nâng cao, tức là nâng cao linh tánh của chính ḿnh.
V́ thế,
điều đầu tiên, bất luận là tại gia học
Phật hay xuất gia học Phật, đều phải
ghi nhớ “chẳng cầu an lạc
cho bản thân”. Cầu an lạc cho bản thân, dẫu đạt
được an lạc, vẫn có những tác dụng phụ
rất phiền phức, tác dụng phụ sẽ dẫn đến
bệnh tật, tai nạn. Con người sống trong thế
gian là v́ chúng sanh, Thích Ca Mâu Ni Phật đă nêu gương
cho chúng ta: V́ hết thảy chúng sanh giáo học. Lợi ích
lớn nhất, công đức thù thắng nhất là giáo học:
“Học vi nhân sư, hành vi thế
phạm” (học làm thầy người, hành vi làm khuôn mẫu
cho cơi đời). V́ thế, “vô
nhiễm thanh tịnh tâm”, hễ làm được điều
đầu tiên là vô nhiễm th́ tâm thanh tịnh mới có thể
đạt được. Chỉ cần có ô nhiễm,
chúng ta nói tới ô nhiễm về mặt tinh thần hay vật
chất, thảy đều rời khỏi, quyết định
chẳng bị tiêm nhiễm. Hiện thời, ô nhiễm phổ
biến nhất, nghiêm trọng nhất là ǵ? TV, Internet hại
chết người! Tại Trung Quốc, tôi không rơ lắm,
nhưng ở ngoại quốc, đặc biệt là tôi ở
nước Mỹ mười mấy năm, học tṛ lớp
Một Tiểu Học đă dùng computer. Ngoài bài tập ra,
trẻ c̣n tiếp nhận tin tức từ Internet. Do vậy,
quư vị thấy nó bị ô nhiễm từ nhỏ, ô nhiễm
biến thành thói quen, cả đời chẳng bỏ được,
quay lại không được, đáng sợ lắm!
Thầy
tôi là tiên sinh Phương Đông Mỹ, xưa kia, có lần
tôi đến nhà thầy, lúc ấy, chạm mặt ba quan
chức thuộc bộ Giáo Dục, địa vị
cũng rất cao đến phỏng vấn lăo nhân gia, nói
tới chuyện phục hưng văn hóa truyền thống,
hỏi cụ dùng phương pháp ǵ để có thể phục
hưng văn hóa truyền thống của Trung Quốc? Cụ
nghe hỏi xong, thái độ hết sức nghiêm túc, im lặng
cả năm phút. Mọi người chúng tôi hết sức
chú ư, chăm chú nghe cụ giáo huấn. Năm phút sau, cụ
nói, phương pháp th́ có. Thứ nhất, thuở ấy tại
Đài Loan có ba đài TV, là Đài Thị, Trung Thị và Hoa
Thị, ba đài truyền h́nh, hăy đóng cửa đài truyền
h́nh. Thứ hai là phải đóng cửa tất cả đài
phát thanh, nhật báo, tạp chí đều phải đ́nh bản!
Ba viên chức nghe xong [thốt lên]: “Thầy ơi! Chuyện
ấy không làm được đâu!” [Thầy trả lời]:
“Những thứ ấy phá hư văn hóa truyền thống
Trung Quốc, nếu quư vị chẳng xóa bỏ chúng, làm
sao phục hưng [văn hóa truyền thống] được!”
Cụ nói rất có lư. Do vậy, ta học Phật, tuy họ
không đóng cửa, họ có quyền phát sóng, nhưng ta
cũng có quyền không tiếp nhận. Gần như năm
mươi năm tôi chẳng coi TV, chẳng đọc nhật
báo, chẳng xem tạp chí, chẳng nghe radio. Mỗi ngày tôi đọc
kinh, đọc những tác phẩm của thánh hiền. V́
thế, người khác hỏi tôi, đối với tôi,
thiên hạ thái b́nh, chẳng có chuyện ǵ! Quư vị có chuyện,
chứ tôi chẳng có ǵ. V́ thế, chỉ cần chúng ta chịu
xa ĺa, liền đạt được cái tâm thanh tịnh.
Chúng tôi sống mỗi ngày vui vẻ, thanh tịnh lắm! Tâm
thanh tịnh sanh trí huệ, trí huệ có thể giải quyết
vấn đề, chẳng để lại hậu quả!
Tri thức không được, tri thức giải quyết
vấn đề, nhưng sau đó để lại hậu
quả. Hơn nữa, tri thức giải quyết vấn
đề cục hạn, chẳng viên măn, chúng ta chớ nên
không biết điều này!
Thuở
trước, tôi diễn giảng, trao đổi với các
sinh viên và giáo sư thuộc khoa Hán Học của đại
học Kiếm Kiều (Cambridge) và đại học Luân Đôn
của Anh. Tôi rất bội phục những người ngoại
quốc ấy, họ trẻ tuổi, nói tiếng Phổ
Thông rất khá. Nói giọng Bắc Kinh rất chuẩn, có
thể đọc văn chương Văn Ngôn, có thể xem
cổ thư Trung Quốc, chẳng thể không bội phục.
Người trẻ tuổi hai
mươi mấy tuổi, học giỏi như thế, nghiên
cứu Hán học, nghiên cứu Nho, Thích, Đạo, dùng
kinh điển Nho, Thích, Đạo để viết luận
văn tiến sĩ. Tôi từng hỏi họ: Ông Thang Ân Tỷ
đă nói: “Để giải
quyết vấn đề xă hội của thế kỷ hai
mươi mốt, phải cần tới học thuyết
Khổng Mạnh của Trung Quốc và Đại Thừa
Phật pháp”. Tôi nói hiện nay các vị đều học
tập học thuyết Khổng Mạnh và Đại Thừa
Phật pháp, những thứ ấy có thể thật sự
giải quyết vấn đề hay chăng? Tôi hỏi họ,
họ nh́n tôi cười, chẳng trả lời. Sau đấy,
tôi hỏi tiếp: “Ông Thang Ân Tỷ nói sai rồi hay sao? Quư
vị có nghĩ ông ta nói sai hay không?” Họ cũng không đáp.
Cuối cùng, tôi bảo họ: Ông Thang Ân Tỷ nói chẳng
sai, nhưng nhiều người đọc rồi hiểu
sai ư. Nhắc tới học thuyết Khổng Mạnh của
Trung Quốc, chắc chắn quư vị nghĩ đến Tứ
Thư, Ngũ Kinh, mười ba kinh, chính là những thứ
họ đang học tập, trong số đó có sinh viên dùng
sách Mạnh Tử để viết luận văn (thesis,
luận án), c̣n có một sinh viên dùng kinh Vô Lượng Thọ
để viết luận văn. Tôi hỏi anh ta: “Kinh Vô
Lượng Thọ có chín phiên bản khác nhau, anh dùng bản
nào?” Anh ta dùng bản hội tập của Hạ Liên Cư,
khó có!
Ta nói rất
nhiều người đọc rồi hiểu sai, v́ sao? Tứ
Thư, Ngũ Kinh, mười ba kinh là hoa quả của Nho
gia, đương nhiên quư vị thấy ngay. Vừa nhắc
tới Đại Thừa Phật pháp, nhất định
quư vị nghĩ đến những bộ đại kinh,
đại luận như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Bát Nhă, có thể
giải quyết vấn đề hay chăng? Chẳng thể
giải quyết. Quư vị không nói, để tôi nói với
quư vị. Đấy là hoa quả, nhưng quư vị phải
nghĩ hoa quả do đâu mà có? Do cây sanh ra, cây do đâu mà có?
Cây do rễ sanh ra. Ông Thang Ân Tỷ chẳng nói sai, nhưng quư
vị phải t́m cội rễ. Cội rễ là ǵ? Cội
rễ của Nho gia là Đệ Tử Quy, cội rễ của
Đạo gia là Cảm Ứng Thiên, cội rễ của Phật
pháp là Thập Thiện Nghiệp; ba thứ này quư vị
đều coi rẻ, nghĩ chúng quá nông cạn, quá thấp,
nhưng đó là cội rễ. Nếu quư vị vứt bỏ
cội rễ, lấy đâu ra cành, lá, hoa, quả? Do vậy,
quư vị nghiên cứu [kinh điển Nho gia và kinh luận
Đại Thừa] chẳng thấu triệt. Tôi nói hiện
thời quư vị đang làm ǵ? Ở nơi đây, trong nhà
trường, quư vị dạy và học về Nho Học, Phật
học, Đạo học. Tôi nói tôi và quư vị khác nhau,
trong tương lai quư vị có thể đạt được
học vị Tiến Sĩ, có thể thành một chuyên gia
về Hán học của Âu Châu, có thể là một giáo sư
nổi tiếng, nhưng quư vị chẳng thể nào sung sướng,
tự tại như tôi được, do nguyên nhân ǵ? Tôi học
trái ngược với quư vị. Hiện thời, người
ngoại quốc viết chữ từ bên trái sang bên phải,
quư vị thấy những ǵ quư vị học được
là Phật học, c̣n tôi tương phản, học Phật!
Quư vị học Đạo học, Nho học, Phật học,
c̣n tôi là học Nho, học Đạo, học Phật, khác
nhau! Học Nho là học giống như Khổng Mạnh, họ
là gương mẫu, tiêu chuẩn cho chúng ta, phải mong bằng
họ. Học Phật là phải giống như Thích Ca Mâu
Ni Phật, học Đạo phải giống như Lăo Trang,
như vậy th́ mới kể là có thành tựu, mới là
trí huệ, có thể thật sự giải quyết vấn
đề. Bởi lẽ, Phật học, Đạo học,
Nho học là tri thức, học Phật, học Nho, học
Đạo là trí huệ. Lời ông Thang Ân Tỷ nói chẳng
sai, nhưng rất nhiều người giải thích sai lầm.
Buổi
học ấy chỉ một giờ, tuy thời gian chẳng
dài, nhưng soi sáng cho họ rất nhiều. Bởi lẽ,
ba món căn bản ấy trọng yếu, là cội rễ
của Trung Quốc, trước đây, do người mẹ
vun bồi căn cội này cho rễ sâu cội chắc. Nho
gia là giáo dục luân lư, đạo đức, Đạo
gia nhằm giáo dục nhân quả, Phật pháp là giáo dục
trí huệ. Quư vị thiếu căn bản này, dụng công
cách nào, học tập cách nào, đều vô dụng! Quư vị
học chẳng giống! Nói cách khác, trong cuộc sống quư
vị có vấn đề, trong công tác có vấn đề,
quư vị đều chẳng thể giải quyết! Nếu
quư vị thật sự học Nho, học Đạo, học
Phật, vấn đề ǵ cũng đều có thể giải
quyết. Quư vị mới thật sự giống như
Phu Tử đă nói: “Học nhi
thời tập chi, bất diệc duyệt hồ?” (học
rồi luyện tập, cũng chẳng vui ư?), pháp hỷ
sung măn, nhà Phật nói “thường
sanh tâm hoan hỷ”. Một người mỗi ngày đều
vui vẻ, làm sao chẳng khỏe mạnh cho được!
Mỗi ngày đều lo âu, sẽ đổ bệnh, chẳng
phải là dáng vẻ khỏe mạnh được! Tướng
trạng khoẻ mạnh là mỗi ngày đều vui sướng.
Nho, Thích, Đạo đều là như vậy. V́ thế,
chúng ta phải nhận biết rơ ràng, phải nghiêm túc học
tập.
Tiếp đó,
điều thứ hai là: “An
thanh tịnh tâm, vị bạt nhất thiết chúng sanh khổ
cố” (Tâm an, thanh tịnh, v́ dẹp khổ cho hết
thảy chúng sanh). Đó là cứu khổ, cứu khổ, cứu
nạn, dùng phương pháp ǵ? Mục đích ǵ? Khiến
cho hết thảy chúng sanh được b́nh an. Quư vị thấy
trong xă hội hiện tại, ḷng người bất an, không
định được, chẳng tĩnh được,
mỗi cá nhân đều có phiền năo khá nghiêm trọng, làm
như thế nào đây? Chúng ta biết ô nhiễm quá nghiêm
trọng, do những ǵ tạo thành? Nói thật ra, do TV tạo
thành, do Internet tạo thành. Internet và TV là đại ma
vương, rất đáng sợ! Trong quá khứ, thầy
Phương bảo tôi những thứ này có thể hủy
diệt một quốc gia, hủy diệt dân tộc, quư vị
chớ nên không cẩn thận đối với nó. Thầy
nói trong tương lai nước Mỹ bị diệt vong
th́ nhân tố đầu tiên là TV. Khi ấy, thầy đă cảnh
cáo chính phủ Đài Loan phải cẩn thận. Lúc đó,
Đài Loan vừa mới khởi đầu, nếu đi
theo nếp sống của Mỹ sẽ bị hủy diệt
trong tương lai. TV hủy diệt thế hệ kế
tiếp, hủy diệt những kẻ trẻ tuổi, TV
dạy ǵ vậy? Bạo lực, t́nh dục, giết, trộm,
dâm, dối, học từ nhỏ, kinh khủng quá! Hoàn toàn
trái nghịch Tánh Đức; nhưng người trong xă hội
và những kẻ chịu trách nhiệm trong chính phủ hoàn
toàn chẳng có ư thức về vấn đề nghiêm trọng
này.
Khi tôi phỏng
vấn tại Mă Lai, vị Thủ Tướng trước
kia là Mă Cáp Địch (Mahathir Bin Mohamad) cũng từng bàn với
tôi về vấn đề này, ông ta nói vấn đề này
hết sức nghiêm trọng. Nhất là sau khi kỹ thuật
mă hóa (digitalized) ra đời, quư vị thấy một con
chip nhỏ ngần ấy, một con chip lớn bằng móng
tay mà chứa đựng thông tin nhiều ngần ấy, nhưng
hiện thời những thông tin ấy đều chẳng
tốt, đều là bất thiện, đều làm hỏng
con người, vấn đề này nghiêm trọng lắm!
Ông ta c̣n t́m người nhắn tôi, mong trong lần phỏng
vấn thứ hai sẽ thảo luận với ông ta về
vấn đề này trong một thời gian dài; đấy
cũng là một người hữu tâm. Con người hiện
thời một mực mê muội truy cầu danh lợi, tranh
danh trục lợi, đạt được ǵ? Dẫu có
đạt được, khổ chẳng thể nói nổi,
lo được, lo mất. Khi chưa đạt được
th́ mong đạt được; khi đă đạt được,
lại sợ mất đi, làm sao an tâm cho được? Không
thể nào an, tâm không thanh tịnh sẽ không an, con người
như vậy sống khổ sở quá! V́ thế, Phật,
thánh nhân dạy chúng ta phương pháp: Chúng ta muốn cứu
xă hội, thế giới, và địa cầu này th́ dùng phương
pháp ǵ? Giảng kinh, giáo học, vẫn là câu nói cũ rích này!
Càng nghĩ, càng thấy có lư. Quư vị giảng kinh, giáo học,
nhằm đánh thức giác tánh của con người, đánh
thức bổn thiện, chỉ cần người ấy
giác ngộ, quay đầu, tâm người ấy sẽ định,
trí huệ mở mang. Đối với những thứ hư
giả, tiếng tăm, lợi dưỡng là giả, tiền
tài dẫu nhiều đến mấy, chẳng phải là quư
vị vẫn ngày ăn ba bữa, đêm ngủ [chỉ nằm
một chỗ dài rộng] sáu thước ư! Nếu liễu
giải chân tướng sự thật, quư vị truy cầu
những thứ ấy để làm ǵ? Khổ chẳng thể
nói nổi! Áo cơm đầy đủ là được
rồi. Mỗi ngày có thể ăn no, quần áo mặc ấm,
có một căn nhà nhỏ để đụt mưa, tránh
gió, quư vị nói có phải là sung sướng lắm hay không?
Nhà to, mỗi ngày phải tốn không ít thời gian để
quét tước, dọn dẹp!
Tôi ở
Mỹ rất nhiều năm, những đồng học
bên ấy làm ăn khá lắm, mua một căn nhà to. Thứ
Sáu và thứ Bảy không đi làm, họ ở nhà làm ǵ? Dùng
thời gian cả ngày để dọn dẹp nhà cửa.
Nếu quư vị không dọn dẹp, cảnh sát sẽ thay quư
vị dọn dẹp, phạt tiền quư vị. Đó là người
làm đầy tớ cho nhà cửa, quư vị phải hầu
hạ nó. Quư vị mua một căn nhà nhỏ khỏe hơn,
tốn một hai tiếng đồng hồ đă dọn
dẹp sạch sẽ, ngăn nắp, mới có thời
gian rảnh rỗi để hưởng thụ. Người
Hoa biết sống, người đọc sách thật sự,
bậc cao nhân, dựng một túp lều tranh nhỏ ở
nông thôn, thoải mái cùng cực. Tôi nhớ thuở bé sống
ở nông thôn, ở trong căn nhà tranh, vách đất, tôi rất
lưu luyến. Căn nhà ấy quư vị thấy chẳng
vừa mắt, nhà tranh, Đông ấm, Hè mát, rất thoải
mái, tường rất dầy. Tường gần như
dầy đến hai ba thước, đắp bằng đất,
lợp bằng cỏ tranh rất dầy. Quả thật Đông
ấm, Hè mát! Mùa Đông khí lạnh chẳng lọt vào được,
sống rất thoải mái. Nhà đúc bằng bê tông cốt
sắt nh́n đẹp đẽ, nhưng thật sự chẳng
có ích cho con người như lều tranh của Trung Quốc.
Con người sống nơi ấy tâm địa thanh tịnh,
trường thọ. Con người hiện thời nói là
từ trường khác nhau. Hiện thời, một ṭa cao ốc
bao nhiêu người ở? Từ trường rất hỗn
loạn, rất phức tạp. Ở nông thôn, gần bên túp
lều tranh không có ai, rất xa mới có nhà người khác,
làm sao giống nhau cho được? Giúp đỡ người
khác bằng thân hành, ngôn giáo, chúng ta dùng thân ḿnh tận lực
thực hiện, thật sự thực hiện giáo huấn
của cổ thánh tiên hiền trong công việc, trong xử
sự, đăi người, tiếp vật. Học vấn thật
sự là đem những đạo lư trong kinh điển biến
thành tư tưởng và kiến giải của chính ḿnh, cảnh
giới ấy sẽ được nâng cao!
Vấn đề
trong hiện tại là v́ giao thông thuận tiện, thông tin
phát triển, địa cầu đúng là thôn địa cầu,
đi ṿng quanh trái đất mất hai ngày, tôi đi mất
ba ngày. Tôi đi một lần, ngày đầu tiên, từ Bắc
Kinh bay tới Ba Lê, ở Ba Lê ngồi xe lửa sang Anh. Ngày
thứ hai, từ Anh bay tới Nữu Ước. Ngày thứ
ba, từ Nữu Ước bay về Bắc Kinh. Thôn địa
cầu mà! Con người trước kia không có cách nào
tưởng tượng chuyện này. Truyền thông phát triển,
bất luận nơi đâu xảy ra chuyện ǵ, qua TV,
radio lập tức biết ngay. Không gian sống của chúng
ta khác với trước kia, đương nhiên nhu cầu
tri thức khác nhau! Do vậy, chẳng thể không quan tâm đến
thế giới này, thế giới này có tương quan mật
thiết với chúng ta, nhưng những thứ thông tin rác
rưởi quá nhiều. Nếu quư vị xem, tiếp xúc [những
thứ ấy], phải lăng phí bao nhiêu tinh thần? Do vậy,
tôi đều buông xuống hết; nhưng tôi cũng có “đường
ống”, [tức là] có những đồng học hảo
tâm, đối với những sự kiện trọng
đại, họ bèn hạ tải từ Internet, đưa
cho tôi xem, đại khái đôi ba ngày tôi đọc chừng
hai ba trang. Những sự kiện trọng đại được
nói trên Internet tôi đều biết, đó là những thứ
tất yếu, không xem những thứ chẳng tất yếu,
toàn bộ chẳng tiếp xúc, tận hết sức giữ
ǵn cái tâm thanh tịnh, giữ cho tâm an định, chúng ta mới
có năng lực giúp đỡ hết thảy chúng sanh khổ
nạn. Giảng kinh, giáo học là cùng nhau chia sẻ trí huệ
của Nho, Thích, Đạo.
Thứ
ba là “lạc thanh tịnh tâm”,
chữ 樂 đọc là Nhạo, nghĩa là ưa
thích, nếu đọc là Lạc sẽ là vui sướng. Quư
vị thấy hết thảy đều giảng về
cái tâm thanh tịnh; thứ nhất là “vô nhiễm”, thứ hai là “an”, thứ ba là “lạc”,
“dục linh nhất thiết
chúng sanh đắc đại Bồ Đề cố”
(v́ muốn làm cho hết thảy chúng sanh đắc đại
Bồ Đề). Đối với Lạc th́ phải ban
cho họ chân lạc; nếu sau khi vui mà c̣n có tác dụng phụ
sẽ chẳng phải là Lạc, chẳng phải là chân lạc.
Do vậy, Phật pháp từ bi cứu thế. Hai chữ “từ tế” (từ bi cứu
giúp) nói đến chân thật rốt ráo sẽ là Đại
Thừa Phật pháp. Có phải là ban cho quư vị của cải
hay chăng? Không phải! Có phải là ban cho quư vị địa
vị hay chăng? Không phải! Có phải là ban cho quư vị
sự vinh diệu hay chăng? Cũng không phải, mà là giúp
quư vị phá mê khai ngộ. V́ sao? Khổ do mê mà có, quư vị
chẳng liễu giải chân tướng sự thật, cũng
có nghĩa là quư vị nghĩ sai, thấy sai, làm sai, nên chuốc
lấy quả báo bất thiện, đó là khổ. Nếu quư
vị tỉnh ngộ, giác ngộ, tư tưởng và kiến
giải của quư vị chính xác, lời nói và việc làm
chính xác, sẽ cảm được thiện quả, thật
sự sung sướng. Ĺa khổ được vui là quả
báo, phá mê khai ngộ là nhân. Phật, Bồ Tát giúp hết thảy
chúng sanh phá mê khai ngộ, tự nhiên phải đạt đến
ĺa khổ, được vui, giáo học mà! Trong giáo học,
quan trọng nhất là chính ḿnh phải nêu gương tốt;
nếu lời nói chẳng đi đôi với việc làm, người
khác chẳng tin tưởng quư vị: “Ngươi là đồ
giả, chẳng thật!” Chẳng hạn như đối
với ba căn bản của giáo dục, những năm
qua, tôi luôn hết sức nhấn mạnh, khuyên mọi
người chúng ta phải học bù đắp những môn
ấy. Những môn ấy từ nhỏ chúng ta chưa học,
cha mẹ cũng chẳng học, ông bà cũng chẳng học,
nay chúng ta học bù những môn ấy, đương nhiên khá
khó khăn, nhưng biết những môn ấy trọng yếu,
nghiêm túc học tập, học bù những môn ấy cũng
chẳng khó khăn, thật sự chịu làm, hai năm sẽ
nhất định học bù xong xuôi. Hai năm ấy nhằm
vun bồi căn bản, hăy c̣n kịp!
Nếu muốn
giúp đỡ người khác, giáo hóa chúng sanh, hăy học theo
Khổng Tử, học theo Phật Thích Ca, c̣n phải học
bù một môn nữa là văn chương Văn Ngôn. Văn
chương Văn Ngôn là trí huệ chân thật của tổ
tiên Trung Quốc, chẳng ǵ có thể sánh bằng. Tổ tiên
biết ngôn ngữ sẽ biến đổi theo thời đại,
nếu văn nói và văn viết giống như nhau, người
mấy trăm năm sau đọc đến, sẽ chẳng
hiểu văn chương hiện thời. Do vậy, phát
minh một phương pháp: Tách rời văn viết và văn
nói, bất luận ngôn ngữ biến đổi ra sao, văn
viết chẳng thay đổi! Phương pháp hay lắm,
cả thế giới t́m không ra nước thứ hai nào.
Hai ngàn năm trăm năm trước Khổng Tử viết
sách, nay chúng ta có thể đọc hiểu, giống như
đối diện tṛ chuyện, đây là một chuyện
tuyệt diệu! Do vậy, chúng ta phải bổ sung văn
chương Văn Ngôn vào khóa tŕnh. Học văn chương
Văn Ngôn như thế nào? Chẳng khó khăn chút nào cả!
Văn chương Văn Ngôn phải cậy vào học thuộc.
V́ thế, trong quá khứ, thầy Lư dạy chúng tôi: “Các anh
có thể học thuộc năm mươi bài cổ văn”,
khi ấy, tài liệu dạy học được chọn
từ bộ Cổ Văn Quán Chỉ, “có thể thuộc năm
mươi bài sẽ có năng lực đọc văn chương
Văn Ngôn, nắm vững văn chương Văn Ngôn”. Đại
Tạng Kinh được viết bằng Văn Ngôn, Tứ
Khố Toàn Thư viết bằng Văn Ngôn, quư vị nắm
được cái ch́a khóa này, cổ nhân lưu lại những
kho báu, quư vị đều có thể thụ dụng. Nếu
có thể thuộc một trăm bài, quư vị sẽ có năng
lực viết Văn Ngôn. Nếu chúng ta mỗi tuần học
một bài, thuộc một bài rồi mới học bài khác,
[học thuộc] một trăm bài cũng không tới hai năm.
Hai năm, nắm được ch́a khóa, đối với
những kho báu do tổ tông lưu lại, quư vị sẽ
có phần. Nếu quư vị chẳng chịu làm [sẽ rất
uổng], những thứ ấy hiện thời đều
có. Kỹ thuật ấn loát tiến bộ, in Tứ Khố
Toàn Thư chẳng khó. Năm ngoái, h́nh như là năm trước
đó, tôi đặt Thương Vụ Ấn Thư Quán in
một trăm bộ Tứ Khố Toàn Thư, đại
khái tháng Năm, tháng Sáu năm nay sẽ in xong, giao toàn bộ
cho tôi. Tôi đặt in một trăm bộ, dự tính tặng
cho những trường có nhu cầu trong nước! Tốn
thời gian hai năm, quư vị nắm được ch́a
khóa, có thể duyệt đọc. Kinh là học vấn, Sử
là kinh nghiệm; có học vấn, có kinh nghiệm lịch sử,
quư vị sẽ có năng lực trị quốc, b́nh thiên hạ,
có thể giải quyết vấn đề, thật sự
đem lại “thân tâm khỏe mạnh, gia đ́nh hạnh phúc,
sự nghiệp thuận lợi, xă hội hài ḥa, thiên hạ
thái b́nh” cho chúng sanh, thật sự làm được, chẳng
phải là mơ tưởng viễn vông, mà là thật sự
có thể thực hiện được! Do vậy, ông
Thang Ân Tỷ có thể nói ra câu ấy, tôi rất bội phục
ông ta. Đây là một người ngoại quốc, nghiên cứu
văn hóa sử thế giới, là một nhà lịch sử
triết học, nói rất hay. Do vậy, người thật
sự giác ngộ trong thế gian đại từ, đại
bi, đại nguyện, đại lực, gần như
đều theo đuổi giáo học, chọn lựa nghề
nghiệp này hết sức có lư. Họ chẳng làm nghề
nào khác, mà làm nghề này; làm nghề nghiệp này đúng là cứu
thế, cứu dân.
Trong Phật
pháp, tâm vui thanh tịnh v́ muốn làm cho hết thảy chúng
sanh đắc đại Bồ Đề. Đại Bồ
Đề: Trí huệ viên măn trong tự tánh gọi là đại
Bồ Đề, giúp đỡ hết thảy chúng sanh trở
về tự tánh. Trí huệ Bát Nhă viên măn trong tự tánh hiện
tiền, đó gọi là “đắc
đại Bồ Đề”. Chuyện này rất khó, tuy
trong tự tánh vốn có, nhưng quư vị cần phải
buông khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp
trước xuống; nói rất dễ, làm thật khó! Có thể
chẳng chấp trước hết thảy các pháp thế
gian và xuất thế gian là tiểu trí huệ, nhưng trí
huệ ấy là thật, chẳng giả, tiểu trí huệ!
Lại buông phân biệt xuống, bèn là Bồ Tát, gọi là
đại trí huệ. Cuối cùng có thể không khởi
tâm, không động niệm, trí huệ viên măn, đó là trí huệ
của Phật, đúng là chúng ta chẳng dễ ǵ làm
được. “Khởi tâm
động niệm”, câu này chúng ta chẳng dễ ǵ liễu
giải. Tới khi bản thân chúng tôi học kinh Hoa Nghiêm, học
bộ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán của Hiền Thủ
quốc sư mới liễu giải khái niệm này đôi
chút. Thật sự khó! Ngay cả nhập pháp môn đă quá khó!
Quư vị thấy nhập môn, phải buông xuống Ngă Chấp,
phải buông Biên Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Thủ
Kiến xuống, rất khó khăn! Do vậy, trong Đại
Thừa có pháp môn đặc biệt là “nhiếp thủ chúng sanh sanh bỉ quốc độ
cố” (nhiếp thủ chúng sanh sanh về cơi Phật ấy).
“Bỉ quốc độ”
là thế giới của Tây Phương A Di Đà Phật.
Trong các vị Phật Như Lai, A Di Đà Phật giống như một vị đă phát
đại tâm thành lập một ngôi trường. Tây
Phương Cực Lạc thế giới là đại học
Phật giáo, là một đại học đa nguyên văn
hóa. Tôi chẳng học Phật, tôi học Cơ Đốc
giáo có thể văng sanh hay không? Tôi học đạo Hồi
có thể văng sanh hay không? Thưa quư vị, thảy đều
có thể văng sanh, tuyệt diệu! Văng sanh chỉ là lúc lâm
chung, đối với Tây Phương Cực Lạc
thế giới tin tưởng, phát nguyện, ta tin tưởng,
ta phát nguyện cầu sanh thế giới Cực Lạc,
ta tu Cơ Đốc Giáo, hay tu đạo Hồi, đem công
đức tu hành hồi hướng Tây Phương Cực
Lạc thế giới, thảy đều có thể văng
sanh, môn này lớn lắm! Bất luận quư vị học
pháp môn nào [cũng đều có thể văng sanh], v́ sao? Quư vị
luôn tu thiện, tích đức, đem công đức ấy
hồi hướng Tây Phương Cực Lạc thế
giới, đều có thể nâng cao phẩm vị của quư
vị. Nhà Phật không có quan niệm môn hộ; nếu có kiến
giải về môn hộ, chẳng phải là đối lập
ư? Vừa mở đầu đă bảo quư vị buông đối
lập xuống, nhận biết cả vũ trụ và chính
ḿnh là nhất thể, ta và A Di Đà Phật là nhất thể.
Trong kinh Phật chẳng nói “tin tưởng, ngưỡng
mộ các tôn giáo khác sẽ bị loại trừ!” Không có! Không
có câu ấy! Quư vị đọc kinh giáo Đại Thừa
sẽ phát hiện trong ấy có rất nhiều vị Bà-la
môn, đó là [tín đồ] Bà La Môn giáo, c̣n có rất nhiều
ngoại đạo, họ đều là tín đồ của
các tôn giáo khác, nhưng đều là học tṛ của Phật.
Do vậy, đức Phật tiến hành giáo dục, chẳng
phải là [truyền bá] tôn giáo, chẳng đối lập
với các tôn giáo khác. Tôn giáo nào đến học cũng đều
hoan nghênh, đều thành tựu giống hệt như nhau,
đều văng sanh như nhau, tới thế giới Cực
Lạc thành Phật, đạt được học vị
tối cao trong giáo dục Phật giáo. Sau khi đạt được,
người ấy vẫn là Bà La Môn giáo, hay vẫn là Cơ
Đốc Giáo, chẳng thay đổi tôn giáo, biến thành
bậc thánh nhân trong tôn giáo của người ấy. Đấy
là chân thật nghĩa trong giáo pháp Đại Thừa.
Trong những
năm qua, đă mười năm rồi, từ năm
1999 bắt đầu, trọn cả mười năm, chúng
ta tiếp xúc nhiều tôn giáo, đề xướng tôn giáo
trên thế giới là một nhà. Tôi học tập kinh
điển của tôn giáo khác, tôi cũng đă từng giảng
Thánh Kinh, giảng Cổ Lan Kinh, họ cũng rất hoan
nghênh. Tôi giảng kinh Mân Côi đọc trong khóa lễ sáng tối
của đạo Thiên Chúa, DVD [thâu bài giảng] về kinh Mân
Côi được lưu thông trong tôn giáo của họ.
Trong sự cảm nhận của chúng tôi, tất cả giáo
chủ các tôn giáo, nói theo Phật pháp, đều là hóa thân của
Phật. Trong Phổ Môn Phẩm có nói: “Nên dùng thân ǵ để độ, bèn hiện thân ấy”.
Nên dùng thân Cơ Đốc (Christ) để độ, bèn
hiện thành Cơ Đốc; nên hiện thân thầy cả
đạo Hồi (Akhoond) để đắc độ,
bèn hiện thân thầy cả đạo Hồi. Trong nhiều
năm qua, cách nghĩ này của tôi được rất
nhiều tôn giáo tán đồng, trước kia, tôi cứ tưởng
c̣n phải mất một thời gian dài biện luận, kết
quả là chẳng cần, đă nhiều năm như thế
chưa hề gặp phải tranh căi lần nào, đều
có thể tán đồng. Do vậy, tôn giáo có thể đoàn
kết .
Tôn giáo nhất
định phải giảng học, phải giáo dục.
Tôn giáo không có giáo dục th́ chỉ có h́nh thức, sẽ biến
thành mê tín, nhất định phải có giáo học. Thật
sự, những giáo chủ sáng lập tôn giáo đều là
nhà giáo dục xă hội, lại c̣n là đa nguyên. Thời
gian dạy học của Thích Ca Phật dài nhất: Bốn
mươi chín năm. Gia Tô (Jesus) bị kẻ khác hại
chết, dạy học ba năm; Mục Hăn Mặc Đức
(Mohamed) dạy học hai mươi bảy năm. Chúng ta chú
tâm quan sát, lúc họ tại thế đều là giảng kinh,
giáo học. Hơn nữa, nh́n vào nội dung, đặt vững
cơ sở giáo dục, giáo dục khắp thế gian, không
ǵ chẳng phải là luân lư, đạo đức, nhân quả.
V́ sao? Ba thứ giáo dục ấy có thể đem lại lợi
ích thiết thân cho đại chúng trong xă hội, chúng ta
thường nói là thân tâm khỏe mạnh, gia đ́nh hạnh
phúc, sự nghiệp thuận lợi, xă hội hài ḥa, thiên
hạ thái b́nh, ba món giáo dục ấy có thể làm được.
Một số ít những kẻ căn cơ thượng
thượng lại nâng cao lên, trong kinh điển có giáo dục
triết học, giáo dục khoa học, giảng rơ chân tướng
của vũ trụ nhân sinh, giảng hết sức hay, Phật
pháp có thể thuyết giảng chuyện này viên măn. Đấy
là A Di Đà Phật kiến lập một ngôi trường,
giúp quư vị giành được học vị tối cao.
Người Trung Quốc gọi đức Phật là “thánh
nhân”. Nếu chúng ta dùng cách xưng hô quen thuộc của Trung
Quốc, chúng ta gọi Khổng Tử là Chí Thánh Tiên Sư,
th́ chúng ta có thể gọi Thích Ca Mâu Ni Phật theo cách xưng
hô như vậy, tức là Chí Thánh Bổn Sư. Phật môn
gọi Thích Ca Mâu Ni Phật là Bổn Sư, [nghĩa là] vị
thầy căn bản, vị thầy lập giáo. Chí Thánh là
Phật, Chí Thánh Bổn Sư, mọi người sẽ chẳng
nẩy sanh hiểu lầm.
Bồ
Tát là hiền nhân, đại hiền. Đại hiền
Văn Thù Sư Lợi, đại hiền Quán Thế Âm,
đại hiền Địa Tạng Vương. Rất
nhiều người tưởng Phật, Bồ Tát, A La
Hán là thần, đều là quỷ thần, sự hiểu
lầm ấy rất lớn! Chúng ta là đệ tử Phật
chẳng giảng rơ ràng, giảng minh bạch, khiến cho đại
chúng trong xă hội nẩy sanh hiểu lầm to lớn như
thế rất đáng tiếc. V́ thế, Ngài kiến lập
thế giới ấy, thế giới ấy do nguyện lực
tạo thành, đại nguyện tuyệt diệu. Điều
này có căn cứ lư luận từ kinh giáo Đại Thừa,
đức Phật nói: “Hết
thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, sự biến
hóa trong cả vũ trụ có quan hệ hết sức mật
thiết với tâm tưởng của chúng ta. Do vậy, nếu
tư tưởng của mỗi cá nhân chúng ta thuần chánh, tâm thái tốt lành, quư vị sẽ khỏe
mạnh, trường thọ, chẳng sanh bệnh tật
ǵ! Tật bệnh do đâu mà có? Lời đức Phật
nói giống như những điều đă giảng trong
Trung Y, cùng một đạo lư, tức là tâm thái của quư
vị nẩy sanh vấn đề. Trong Phật pháp nói tới
Tam Độc tham, sân, si, đấy là căn nguyên của tất
cả hết thảy bệnh tật. Trong tâm quư vị có
ba thứ ấy, cho nên bản thân quư vị có cái nhân bệnh
tật. Tôi thường nói thêm hai thứ là ngạo mạn
và hoài nghi. Hoài nghi thánh hiền, hoài nghi chính ḿnh, tôi gọi
[năm điều ấy] Ngũ Độc; đức Phật
giảng Tam Độc là tham, sân, si, tôi thêm vào hai cái nữa,
thành tham, sân, si, mạn, nghi, Ngũ Độc. Quư vị có năm
thứ độc này, bên ngoài có vi khuẩn cảm nhiễm,
quư vị rất dễ nhiễm bệnh. Nếu bên trong chẳng
có tham, sân, si, mạn, nghi, dẫu vi khuẩn gây bệnh bên ngoài
nghiêm trọng cách mấy, vẫn chẳng thể nhiễm
bệnh cho quư vị. V́ thế, [điều ấy được]
gọi là sức miễn dịch, quư vị sẽ không bị
bệnh. Quư vị ra vào khu vực đang xảy ra nạn ôn
dịch nghiêm trọng chẳng sao cả, đạo lư ở
chỗ này!
Đă có
ngũ độc, mà nếu quư vị c̣n có năm thứ
duyên th́ hết sức dễ bị nhiễm bệnh. Năm
thứ bệnh duyên là ǵ? Oán hận! Quư vị có oán khí, có hờn
giận, có phiền năo. Oán, hận, năo, nộ, phiền, là
duyên, tức là duyên gây nhiễm bệnh. Có nhân, có duyên, lẽ
đâu quư vị chẳng ngă bệnh? Nếu quư vị hiểu
đạo lư này, buông ngũ độc xuống, năm thứ
tâm thái chẳng tốt đẹp cũng buông xuống, bất
luận trong hoàn cảnh nào, ta không có oán mà cũng chẳng
có hận, đối với thuận cảnh chẳng khởi
tham luyến, đối với nghịch cảnh chẳng
oán hận, vĩnh viễn giữ cho chính ḿnh thanh tịnh,
b́nh đẳng, quư vị sẽ trăm bệnh chẳng
sanh! Dẫu bị bệnh, không cần trị liệu, tự
ḿnh lành bệnh, v́ sao? Chúng ta hiểu: Phân tích mỗi tế
bào trên toàn thân th́ tế bào đều do nguyên tử, hạt
cơ bản [hợp thành]. Những hạt cơ bản,
nguyên tử ấy mang bệnh, v́ lẽ ǵ? Do quư vị có
ngũ độc, nên mới bị nhiễm bệnh, những
tế bào ấy biến thành tế bào nhiễm bệnh. Nếu
quư vị giác ngộ, hiểu rơ, buông những phiền năo tập
khí xuống, những tế bào mang bệnh sẽ lập tức
khôi phục b́nh thường. Khôi phục b́nh thường,
chẳng phải là khỏe mạnh ư? Do vậy, lư luận
trong cách trị bệnh của Trung Y rất cao sâu, người
ngoại quốc chẳng biết. Bệnh có thể chữa
lành, bảy phần cậy vào tâm thái, thuốc men chỉ hữu
dụng ba phần. Khi tâm thái tốt, ba phần thuốc chẳng
cần dùng đến. Nếu tâm thái của quư vị bất
hảo, thường có ưu lự, thường có phiền
năo, thường có tham, sân, si, mạn, bệnh ấy cũng
rất khó chữa lành, dẫu thầy thuốc giỏi cũng
đành bó tay chịu phép! Do vậy, hiểu đạo lư
này, đấy chính là đạo dưỡng sanh, chính ḿnh có
thể chẳng bị bệnh tật, dẫu mỗi năm
tuổi cao hơn, nhưng sức khỏe chẳng bị tổn
hại tí nào, cũng chẳng dễ dàng lăo hóa, đấy
là ǵ? Tâm thái tốt đẹp. Đấy là Phật pháp
mang đến lợi ích chân thật hiện tiền cho
chúng ta.
Người
thuộc lớp tuổi trung niên trở lên, mọi người
chú trọng sức khỏe, sức khỏe phải nhờ
vào thuốc bổ là giả, những thứ ấy đều
rất đáng sợ, v́ sao? Chúng có tác dụng phụ, chẳng
phải là thứ tốt lành. Thứ tốt đẹp là tâm
thái của quư vị. Hăy điều chỉnh tâm thái, đoạn
ác, tu thiện. V́ thế, ăn chay là đạo dưỡng
sanh tốt nhất. Tôi học Phật chưa đầy nửa
năm bèn chọn cách ăn chay, tôi chẳng phải là mê
tín. V́ trước khi học Phật, lúc tôi c̣n học trong
trường, tức lúc học Trung Học tại Nam Kinh,
quê tôi ở An Huy, tôi một ḿnh ở Nam Kinh, ở nhà người
bạn học họ Trần, Nhĩ Đông Trần[9], Trần Trí, về sau anh ta học Y, tôi
ở trong nhà anh ta h́nh như hai học kỳ, tức một
năm. Gia đ́nh anh ta là đa nguyên văn hóa, bà nội niệm
Phật, trong nhà có tiểu Phật đường, niệm
Phật, thắp nhang. Mẹ anh ta là tín đồ Cơ Đốc,
cha là tín đồ đạo Hồi. Do vậy, tôi ở đấy
một năm, đối với Cơ Đốc Giáo và đạo
Hồi đều hiểu đôi chút, thường nghe các vị
lăo nhân giảng giải. Hơn nữa, tôi rất thích đạo
Hồi, đạo Hồi nói tới Ngũ Công[10], Ngũ Điển. Ngũ Điển là
Ngũ Luân của Nho gia. V́ thế, đạo Hồi của
Trung Quốc và văn hóa truyền thống Trung Quốc đă
dung hợp thành một khối, vô cùng ôn ḥa. Sau này, tôi ở
ngoại quốc, có một phái đạo Hồi tại Trảo
Oa (Java) thuộc Ấn Ni (Indonesia) do Trịnh Ḥa[11]
truyền qua, nên trong phái ấy có dấu ấn văn hóa
Trung Quốc, vô cùng ôn ḥa. Trịnh Ḥa là tín đồ đạo
Hồi, chủ nhân của ông ta là hoàng đế Vĩnh Lạc
(Minh Thành Tổ), [nhà vua] là một Phật tử kiền thành,
cho nên Trịnh Ḥa cũng quy y Phật giáo, ông ta cũng truyền
đạo Hồi. Một chi phái đạo Hồi ở Tô
Môn Đáp Lạp (Sumatra) của Ấn Ni do Trung Đông truyền
qua, so ra mạnh mẽ, hung hăn, khác hẳn phái đạo Hồi
tại Trảo Oa. V́ thế, vùng Nam Dương chịu ảnh
hưởng rất lớn từ Trịnh Ḥa măi cho đến
hiện thời đă sáu trăm năm mà vẫn c̣n thấy
những hiệu quả ấy.
Khi ấy,
tôi biết ăn uống trong đạo Hồi được
t́m hiểu kỹ hơn b́nh thường. Người b́nh
thường chúng ta chỉ biết vệ sinh, sinh là sinh lư,
ăn uống nhằm bảo vệ sinh lư ấy, đó là vệ
sinh. Đạo Hồi không chỉ biết vệ sinh, mà c̣n
biết vệ tánh, tánh là ǵ? Tánh t́nh. Chúng ta tánh t́nh ôn nhu có liên
quan tới ăn uống. Do vậy, phàm những động
vật hay thực vật có tánh t́nh bất hảo họ cũng
không ăn. Năm ấy, tôi hiểu được một
đạo lư như thế. Sau này, tiếp xúc Phật pháp, Phật
pháp chọn lựa cách ăn chay, giảng ba điều: Phật
giáo không chỉ biết vệ tánh, mà c̣n biết vệ tâm,
“tâm” là tâm từ bi. Do vậy, ẩm thực trong nhà Phật
là vệ sinh, vệ tánh, vệ tâm, đây là đạo dưỡng
sanh rất viên măn, tôi vừa tiếp xúc bèn tiếp nhận.
Tôi ăn chay đến năm nay là năm mươi chín năm,
sang năm tṛn một giáp, khỏe mạnh, suốt đời
chẳng bị bệnh. Tôi tham gia nhiều hội nghị
quốc tế, người ta hỏi tôi nhiều nhất là:
“Pháp sư! Thầy dùng phương pháp dưỡng sanh nào?”
Tôi bảo họ: “Ăn chay, tâm thanh tịnh. Tôi chẳng có
đạo dưỡng sanh nào khác!” Chỉ là ăn chay, tâm thanh
tịnh. Tận hết sức tránh né ô nhiễm bên ngoài, ô
nhiễm vật chất, ô nhiễm tinh thần, tận hết
sức tránh né, mỗi ngày thân cận cổ thánh tiên hiền,
đấy là t́nh trạng sinh hoạt mỗi ngày của tôi.
Họ thấy thân thể tôi khỏe khoắn đều rất
hâm mộ. Đấy là v́ người khác thuyết pháp, tuy
họ không hiểu Phật giáo, cũng không mong học Phật,
thấy thân thể tôi khỏe mạnh, mong học theo tôi. Tôi
sẽ dạy họ một chiêu, vô cùng hữu hiệu. Lớn
nhất là A Di Đà Phật đă kiến lập một đạo
tràng tu hành cho chúng ta là thế giới Cực Lạc. Thế
giới ấy vô cùng viên măn. Trong bộ kinh này, giới thiệu
Tây Phương Cực Lạc thế giới, giới thiệu
lịch sử và trạng huống trong cơi ấy, trạng
huống sinh hoạt, giới thiệu thành quả giáo học
bên ấy. Đương nhiên phương pháp tốt nhất
là di dân sang Tây Phương Cực Lạc thế giới,
thân cận A Di Đà Phật, nơi ấy là chốn đạt
được thường lạc rốt ráo.
“Bồ Đề thị tất
cánh thường lạc xứ” (Bồ Đề là chỗ
thường lạc rốt ráo), quư vị phải ghi nhớ,
Bồ Đề là tiếng Ấn Độ, dịch sang
nghĩa tiếng Hán là giác ngộ, thật sự giác ngộ
là chốn thường lạc rốt ráo. Trái lại, mê mà
chẳng giác chính là thật sự thường khổ, lục
đạo luân hồi do mê hoặc, điên đảo tạo
thành, là một cơn ác mộng. Giác ngộ là quư vị tỉnh
lại. “Nhược bất linh
nhất thiết chúng sanh đắc tất cánh thường
lạc giả, tắc vi Bồ Đề môn” (nếu chẳng
làm cho hết thảy chúng sanh được rốt ráo thường
lạc sẽ là trái nghịch môn Bồ Đề). Câu này
nói rất hay, đối với hết thảy chúng sanh, nếu
chính ḿnh đă đạt được, mà chẳng giúp cho
người khác đạt được, đấy chính
là trái phạm Bồ Đề. Chính chúng ta đă đạt
được, bèn có nghĩa vụ giúp cho hết thảy
chúng sanh đều đạt được. Chính chúng ta
hướng tới thế giới Cực Lạc, sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới, th́ phải giúp
hết thảy chúng sanh đều đến thế giới
Cực Lạc. Nơi ấy có hoàn cảnh khác nơi đây,
con người bên ấy là hóa sanh, chẳng phải là thai
sanh, nên chẳng có sanh khổ. Người bên ấy vô lượng
thọ, Đối với vô lượng thọ, nay chúng ta
biết: Tâm thái của quư vị giữ được mức
b́nh thường nhất định, thân thể sẽ chẳng
dấy lên biến hóa, gọi là thân Kim Cang bất hoại. Thân
Kim Cang bất hoại chẳng hiếm lạ chút nào! Quư vị
hiểu rơ đạo lư này, có căn cứ lư luận, chỉ
cần quư vị có thể không khởi tâm, không động
niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước,
tế bào trong thân thể quư vị sẽ chẳng biến đổi,
vĩnh viễn giữ được sự b́nh thường.
Nếu quư vị có phiền năo, không được rồi,
nó sẽ dấy lên biến hóa; có tham, sân, si, nó bèn biến
hóa to lớn. V́ thế, chẳng khởi tâm, không động
niệm, vĩnh viễn giữ ǵn b́nh thường. Ở
bên Tây Phương Cực Lạc thế giới, A Di Đà
Phật gia tŕ quư vị, mỗi ngày chỉ dạy bên ấy,
hướng dẫn quư vị, quư vị sẽ chẳng khởi
tâm động niệm, muôn h́nh muôn vẻ trong vũ trụ,
tánh, tướng, sự, lư, nhân, quả đều giảng
thấu triệt cho quư vị. Quư vị đều minh bạch
rồi, chẳng c̣n khởi tâm động niệm nữa,
thế giới Cực Lạc h́nh thành như vậy đó,
là một pḥng học tốt. “Cố
linh nhất tâm chuyên chí, nguyện sanh bỉ quốc, dục
sử tảo hội vô thượng Bồ Đề dă”
(v́ thế, khiến cho nhất tâm chuyên chí, nguyện sanh
sang cơi kia, khiến cho mau đắc vô thượng Bồ
Đề). “Hội” (會) là quư vị đạt được,
chứng đắc, chữ Hội có ư nghĩa này. Hôm nay hết
thời gian rồi, chúng ta học tập tới đây.
Tịnh Độ Đại Kinh Giải
Diễn Nghĩa
Phần 12 hết
[1] Giáp Cốt Văn, nói đầy đủ
là Quy Giáp Thú Cốt Văn (văn tự trên mai rùa,
xương thú vật), chủ yếu chỉ những ghi
chép, lời bói toán được khắc trên yếm rùa,
mai rùa, xương thú thời Ân Thương. Đây là h́nh
thức văn tự sớm nhất của Trung Quốc,
là thủy tổ của chữ Hán hiện thời. Giáp Cốt
Văn được phát hiện tại di chỉ Ân
Khư (An Dương, Hà
[2] Hư tuế: Ta thường gọi là
“tuổi ta”, tức là tính luôn năm sinh là một tuổi,
chứ không đợi đến ngày sinh nhật năm
sau.
[3] Nguyên văn là A Hoanh (阿訇), đây là phiên âm của chữ Akhoond
(Akhund, Akhwand), một từ ngữ có gốc từ tiếng
Ba Tư, thường sử dụng tại Iran, A Phú Hăn,
Azerbaijan và trong cộng đồng Hồi tộc (Dungans) tại
Trung Hoa. Akhoond tương ứng với chữ Imam trong tiếng
Ả Rập. Akhoond giữ vai tṛ hướng dẫn cầu
nguyện, cử hành nghi lễ tôn giáo, dạy học trong
các trường Hồi giáo. Điều đáng ngạc
nhiên là hiện thời tại Iran, quê hương của từ
ngữ Akhoond, từ Akhoond được coi như một
từ ngữ mang nặng tính chất xúc phạm để
chỉ những giáo sĩ đạo đức giả, kém
cỏi, dốt nát, bại hoại!
[4] Koran (Quran, Qur’an, Alcoran, al-Qur’ān)
là kinh thánh của đạo Hồi, được coi là lời
dạy trực tiếp từ Thượng Đế
được thiên sứ Jibril (Gabriel) truyền cho tiên tri
Mahomed trong ṿng hai mươi ba năm kể từ năm
610 trước Công Nguyên khi Mohamed tṛn 40 tuổi. Koran
được biên tập bởi Caliph Abu Bakr một thời
gian ngắn sau khi Mohamed chết. Truyền thống đạo
Hồi tin Mohamed được trao truyền kinh Koran tại
hang Hira trong vùng núi hoang.
[5] Sáu tầng trời trong Dục Giới
là Tứ Vương Thiên, Đao Lợi Thiên, Diễm Ma
Thiên, Đâu Suất Thiên, Hóa Tự Tại Thiên, Tha Hóa Tự
Tại Thiên.
[6] Tam Công là ba chức quan phù tá tối cao của
nhà vua, được thiết lập từ đời
Châu, gồm Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo. Đến đời
Hán, Tam Công là Thừa Tướng (về sau đổi thành
Đại Tư Đồ), Thái Úy, Ngự Sử Đại
Phu (về sau đổi thành Đại Tư
Không). Nhà Hậu Hán gọi Thái Úy, Tư Đồ,
Tư Không là Tam Công. Đến đời Tống Huy Tông, lại
đổi Tam Công thành Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo. Về
sau, với sự h́nh thành lục bộ và vai tṛ ngày càng lớn
của Tể Tướng, Tam Công chỉ c̣n là chức quan
danh dự tặng cho các vị cố vấn cao cấp.
[7] Bốn nền văn minh cổ nổi
tiếng nhất và sớm nhất trên thế giới là Cổ
Ai Cập, văn minh lưu vực Lưỡng Hà (
[8] Triệu Phác Sơ (1907-2000) là một
nhân vật đặc biệt của Trung Quốc, ông là một
nhà hoạt động xă hội, lănh tụ tôn giáo, thi nhân,
chuyên gia thư pháp, đồng thời là một cư
sĩ Phật giáo hữu danh. Ông quê ở huyện Thái Hồ,
tỉnh An Huy, từng đảm nhiệm chức vụ Hội
Trưởng Hội Phật Giáo Trung Quốc, kiêm chủ tịch
hội nhà văn Trung Quốc, Hội Trưởng Danh Dự
của hội Hồng Thập Tự Trung Quốc.
[9] Họ
Trần (陳)
đọc theo âm Quan Thoại là Chén, nhưng đồng thời
các họ 沈 (Thẩm), 沉 (Trầm), cũng có
cùng âm đọc, nên ḥa thượng nói
rơ là Nhĩ Đông Trần (để người ghi lại
văn tự đừng chép sai), tức là bộ Phụ
ghép với chữ Đông. Do bộ Phụ viết tắt
có h́nh dáng giống như cái tai nên nói là Nhĩ Đông Trần.
[10] Ngũ Công (Arkān-al-Islām) chính là năm tín điều căn bản
của tín đồ đạo Hồi, bao gồm:
1. Tín niệm (Shahada), tức chỉ tin
vào một Chúa là Allah và chấp nhập Mohamed là tiên tri của
Chúa Allah.
2. Cầu nguyện (Salat): Thực hành
năm thời cầu nguyện mỗi ngày: b́nh minh, hoàng
hôn, giữa ngọ, giữa chiều, tối.
3. Trai giới (Sawm): Tức mùa chay Ramadan.
Trong mùa chay, tín đồ Hồi giáo nhịn ăn từ
lúc mặt trời mọc cho đến khi mặt trời
lặn, hoàn toàn kiêng ăn uống, rượu chè, hút thuốc,
kiêng quan hệ xác thịt từ lúc mặt trời mọc
đến mặt trời lặn trong suốt tháng Ramadan.
Chỉ có trẻ con, người già, người bị bệnh
tật, có thai hay đang cho con bú mới được miễn
trai giới trong tháng Ramadan.
4. Bố thí (Zakat): Trích 2,5% thu nhập của
ḿnh để giúp người nghèo khó. Khi cho mượn tiền,
không được lấy tiền lời. V́ thế, có những
kẻ lách luật bằng cách cho vay nợ, rồi đ̣i hỏi
người mượn phải tặng quà để tỏ
ḷng “biết ơn”. Cái gọi là “tặng quà” ấy thật
ra là tiền lời.
5. Hành hương (Haji): Mỗi tín đồ
được khuyến khích hành hương ít nhất một
lần trong đời đến thánh địa
[11] Thái giám Trịnh Ḥa là thái giám thân tín của
Minh Thành Tổ, vốn có tên thật là Mă Tam Bảo, theo
đạo Hồi. Tổ tiên từ